Chào mừng bạn đến với blog ĐỌC & SUY NGẪM .

17 thg 8, 2013

CỘNG SẢN CHỈ CÓ SỤP ĐỔ, KHÔNG CÓ CHUYỂN ĐỔI


Trong một bài viết hôm 12/8/2013 của ông bác sỹ Benjamin S. Carson - một tài năng y học của thế giới - trên Real Clear World về chủ đề chính phủ mới ở Trung Hoa chống lại hiến pháp của Hoa Kỳ. Ông cho rằng, 3 bài viết trên các trang nhất Tân Hoa Xã, Nhân Dân nhật báo và Hỏa Tuyến Bình luận của một giả có bút hiệu là Ma Zhongcheng - 马众诚, có nghĩa là Trung thành với chủ nghĩa Marx - đều cho thấy là một kiểu sửa lại những bài tuyên truyền cũ của thời Mao Trạch Đông ở thập niên 1970.

Theo Bùi Mẫn Hân - Minxin Pei - một chuyên gia về chính trị Trung Quốc tại Claremont McKenna College, gần đây đã viết, "Các lãnh đạo mới của Trung Hoa có thể bỏ qua một số cải cách về kinh tế, hành chính phù hợp với mục tiêu bảo tồn sự cai trị của Đảng Cộng sản. Nhưng nó sẽ không chấp nhận bất cứ sáng kiến ​​nào có thể gây nguy hiểm đến độc quyền chính trị của đảng cộng sản, mặc dù đảng cộng sản ở Trung Hoa bây giờ không còn lý tưởng của cộng sản".

Qua những chính sách cải tổ gần đây của Trung Hoa, nổi bật nhất là chiến lược kinh tế ba phàm là của Lý Khắc Cường - Likonomics: không kích thích kinh tế, giảm nợ và tái cơ cấu - cũng thấy thấy nó chỉ đơn thuần là 3 biện pháp tạm thời giải nguy cho nền kinh tế Trung Hoa. Không giống với chiến lược của ông Shinzo Abe - Abenomics - là một phức hợp cải cách gồm 3 mục tiêu chính trị song hành với 3 mục tiêu kinh tế cho nước Nhật. Càng không giống như Hoa Kỳ là, mỗi lần thay đổi lãnh đạo có trường phái khác nhau, thì chính trị và kinh tế cũng đổi theo.

Ở Việt Nam cũng vậy, trong bài viết Bàn về kỷ vật của chủ tịch nước trao cho tổng thống Obama của tôi, những sự kiện tôi đã liệt kê, chứng minh hùng hồn cho việc đối với đảng cộng sản thì không có chuyện chuyển đổi. Thậm chí, sau sự kiện Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, đảng cộng sản ở Việt Nam còn sửa đổi hiến pháp năm 1992, để thêm cái điều 4 nhằm khẳng định độc tôn cầm quyền ở Việt Nam, mà các hiến pháp 1946, 1959 và 1980 chưa bao giờ có điều này.

Lịch sử thế giới về các quốc gia có đảng cộng sản cầm quyền cũng cho thấy rõ điều này. Những năm 1950s, một số quốc gia Đông Âu như, Ba Lan, Tiệp Khắc và Nam Tư, họ đã chán chê đảng cộng sản, họ muốn ly khai và thay đổi nền chính trị theo phương Tây. Nhưng dưới sự kiểm soát của Liên Xô bằng mọi cách cả chính trị lẫn quân sự đã không cho phép họ chuyển đổi nền chính trị từ đơn nguyên sang đa nguyên, và nền kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường tự do. Mãi đến khi Liên Xô thất bại và sụp đổ vì sau một thời gian dài đi theo nền kinh tế bao cấp, mà phải chạy đua vũ trang với Hoa Kỳ và phương Tây, trong khi phải bảo kê cả các đồng minh cộng sản trên toàn thế giới, thì sự sụp đổ thực sự mới diễn ra ở Đông Âu.

Nhưng dù, Trung Hoa đã từ bỏ nền kinh tế bao cấp từ 1978, sau khi Đặng Tiểu Bình thỏa thuận với Hoa Kỳ bằng Thông Cáo Thượng Hải 12/1972, và Liên Xô cùng Đông Âu sụp đổ 1990, đảng cộng sản ở Trung Hoa vẫn không từ bỏ con đường độc tôn cầm quyền của mình. Việt Nam nằm cạnh Trung Hoa cũng phải đi theo Trung Hoa bằng Hội nghị Thành Đô, để đảng cộng sản ở Việt Nam tiếp tục khẳng định độc tôn cầm quyền bằng hiến pháp sửa đổi 1992.
Hơn nửa triệu người trước Quảng trường Thiên An Môn ngày 04/6/1989
vẫn bị xe tank, súng đạn của Đặng tàn sát chỉ trong 1 đêm.

Bây giờ, Trung Hoa đang khủng hoảng tài chính do nền kinh tế định hướng thị trường xuất khẩu và sản xuất hàng hóa giá rẻ, đẩy tăng trưởng bằng đầu tư công từ tiết kiệm của hộ gia đình. Kinh tế Trung Hoa chắc chắn sẽ hạ cánh nặng nề, nhưng với ngôi vị độc tôn cầm quyền của đảng cộng sản không thể lung lay. Vì với tư tưởng của Mao, họng súng đẻ ra chính quyền, các quốc gia có đảng cộng sản nắm quyền sẵn sàng độc ác để giữ sự độc tôn cầm quyền. Thiên An Môn đẫm máu, mới đây nội loạn Tây Tạng, Tân Cương, họ đã đàn áp dã man. 

Việt Nam là bản sao tận tụy và trung thành nhất của Trung Hoa từ sau 1990, là đồng minh chiến lược của Trung Hoa cũng đang sụp vào vũng lầy của một nền chính trị nửa dơi, nửa chuột và kinh tế kiểu mang màu sắc Trung Hoa. Cho nên khi Trung Hoa không sụp đổ, thì đảng cộng sản ở Việt Nam vẫn còn độc tôn nắm quyền hành cai trị.

Tất cả những điều trên cho ta thấy rằng, ở bất kỳ quốc gia nào trên thế giới mà đảng cộng sản cầm quyền, thì chỉ có sụp đổ mới có sự thay đổi thực sự về chính trị và kinh tế. Việc chuyển đổi từ một nền chính trị đơn nguyên và một nền kinh tế do nhà nước chỉ huy sang một nền chính trị đa nguyên và một nền kinh tế thị trường tự do, khi đảng cộng sản chưa sụp đổ là điều ảo tưởng.
 
Nguồn : BS Hồ Hải

VẬT THẾ CHẤP CHÍNH TRỊ


 Lời tuyên bố đầy bản lĩnh chính trị của cô gái trẻ Phương Uyên trong phiên tòa ngày 16/8/2013 là một bản án đanh thép đi vào lịch sử ngàn năm của dân tộc Việt Nam với chế độ độc quyền của đảng cộng sản ở Việt Nam


Từ ngàn xưa, khi con người bước ra khỏi cuộc sống của thời cộng sản nguyên thủy bầy đàn, để đấu tranh sinh tồn với hiểm họa vây quanh, cũng là lúc con người biết sử dụng vật thế chấp làm tin trong giao dịch.

Để được ngồi ngôi cao, hưởng ân sủng của thiên hạ, lấy uy tín với thần dân, các vua phong kiến sử dụng con mình để gả cho quốc gia lân bang làm vật thế chấp chính trị, để thực hiện phương án ngoại giao, chờ thời cơ xâm chiếm.

Trong làm ăn giao thương, tài sản cố định là vật thế chấp cho đối phương, ngân hàng để vay vốn làm ăn. Chỉ có những đối tác làm ăn lâu bền, uy tín lớn, tín chấp là một kiểu thế chấp cao cấp nhất của con người tới giờ này.

Nhưng khi xã hội ngày càng phát triển vật thế chấp càng có nhiều hình thức tinh vi hơn. Tinh vi và ác độc nhất vẫn là các chính khách lấy đồng bào mình làm vật thế chấp chính trị trong bang giao. Trong khi họa cũng trút lên đầu dân, mà nguy cũng trút lên đầu dân, còn lộc thì chính khách và dòng họ an hưởng.

Ở bất kỳ quốc gia nào trên thế giới ngày nay, phương án dùng dân làm vật thế chấp để đi buôn chính trị của chính khách đều có, thời chiến cũng thế, và thời bình cũng thế.

Hoa Kỳ khi muốn lấy lòng toàn thế giới, vật thế chấp của họ gồm cả sức mạnh cứng và sức mạnh mềm. Đã thế, ở đâu có bất ổn, họ sẵn sàng đem tuổi trẻ của họ làm lính viễn chinh đến, với cái gọi là vì tự do dân chủ. Nhưng nếu nhìn về bản chất, những người trẻ lính viễn chinh này không ngoài là vật thế chấp.

Nhìn lại lịch sử Việt Nam 83 năm qua, vừa ra khỏi ách đô hộ thực dân Pháp thì lao vào nội chiến. Hậu quả, hơn 3 triệu sinh linh đã ngả xuống, đến giờ này còn hơn 300 ngàn không tìm được xác, và còn hơn 200 ngàn đã tìm được xác, nhưng chưa rõ họ tên. Những chiến sỹ vô danh ấy, họ sinh ra, và lớn lên, không ai nhớ mặt đặt tên, nhưng họ là vật thế chấp cho ngai vàng của các chính trị gia của cả 3 bên - thắng cuộc, bỏ cuộc, và thua cuộc trong nội chiến kéo dài 20 năm.

Hòa bình lập lại, chưa được yên ấm bao nhiêu ngày. Một nửa bên thua và bỏ cuộc trở thành vật thế chấp để các chính khách bên thắng cuộc tiếp tục nồi da nấu thịt, để người dân thà bỏ thây cho cá, cướp biển, để đi tìm đất sống. Và chỉ vì chính khách kém tầm trong ngoại giao, và mê muội trong men say thắng cuộc. Một cuộc chiến kéo dài 12 năm ở cả 2 biên giới Tây Nam và phía Bắc - 1978 đến 1990. Hàng triệu thanh niên nữa lại ngả xuống, không phải vì chén cơm manh áo của mình và gia đình mình, mà vì sai lầm của chính khách.

Vốn xuất thân từ giai cấp làm cách mạng triệt để nhất, nhờ không có gì để mất - giai cấp vô sản. Họ đã chọn con đường đã và đang đi theo 83 năm qua là con đường tăm tối. Nó đã sụp đổ ngay tại cái nôi sinh ra nó. Nhưng có một nghịch lý cuộc đời là, chính giai cấp vô sản là giai cấp làm cách mạng triệt để nhất, nhưng khi cướp được chính quyền, thì họ lại không có gì để có thể dựng xây đất nước. Thế cuộc buộc họ lại phải quay lại con đường mà họ đã đạp đổ nó - bất công, độc tài và tàn ác còn hơn cả thực dân.

Vì không có gì để dựng xây đất nước, và con đường đã chọn tăm tối ấy, họ lại quay sang lấy biên cương lãnh thổ, tài nguyên và cả đồng bào mình làm vật thế chấp cho việc bang giao.

Khi vào WTO và muốn ra khỏi các nước nằm trong danh sách các nước đặc biệt bị quan tâm - Country of Particular Concerns, gọi tắt là CPC - một số nhân vật bất đồng chính kiến như Linh Mục Nguyễn Văn Lý, Linh Mục Ngô Quang Kiệt, giáo dân Thái Hà, các luật sư Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân, Lê Quốc Quân, Lê Trần Luật, v.v... được lấy để làm vật thế chấp trong đàm phán bang giao. Họ được thả và giảm án.

Sau khi vào được ra khỏi danh sách CPC, và vào WTO cùng lúc vào tháng 11/2006,  thì tình trạng đàn áp tôn giáo và bắt bớ những nhà bất đồng chính kiến lại diễn ra dày đặt, ngày càng gia tăng từ 2008 đến nay. Cụ thể là tháng 02/2005 Linh mục Nguyễn Văn Lý được giảm án và ân xá, thì đến 18 tháng Hai năm 2007 ông bị bắt và chính thức ngồi tù lại vào ngày 30 tháng Ba năm 2007. Luật sư Lê Quốc Quân cũng trở lại nhà tù vào tháng 12/2012, sau khi bị bắt vào tháng 3/2007, và còn bao nhiêu người khác nằm trong diện sẵn sàng "chờ đợi" làm vật thế chấp cho con buôn chính trị.

Hôm qua, câu chuyện giảm án của Phương Uyên từ 6 năm tù giam còn 3 năm tù treo cộng với 3 năm quản thúc, cũng là 6 năm từ nhà tù nhỏ sang nhà tù to. Với Nguyên Kha giảm án từ 8 năm tù còn 4 năm tù cũng không ngoại lệ là vật thế chấp chính trị trong bang giao. Vì nếu chế độ này đối xử tốt với dân thì cái án của gia đình ông Đoàn Văn Vươn đã không y án sau phiên phúc thẩm! Xem ra chế độ Phong kiến xưa kia tuy vậy mà vua lo cho dân, cho nước hơn nhiều.

Liệu những điều trên các quốc gia bang giao với Việt Nam họ có biết? Chắc chắn và đương nhiên là quá biết, và càng không tin cậy Việt Nam, khi đồng bào Việt Nam bị đối xử tệ thì làm sao họ là ngoại bang được đối xử tốt hơn?

Từ đó cho thấy, chế độ đảng cầm quyền này chưa và sẽ không bao giờ xem dân là gốc, mà luôn là vật thế chấp trong mọi cuộc bán buôn nhơ nhớp của chính trị. Chỉ có ngoại bang có ảnh hưởng đến sinh mệnh sống còn của đảng cầm quyền, mới có thể sai khiến được đảng cộng sản làm theo như kiểu con tắc kè đổi màu, để đấu tranh sinh tồn, rồi màu khát máu vẫn là màu của máu.

Một chế độ mà ở đó, xem người dân là vật thế chấp cho con buôn chính trị thì, bản chất của chế độ đó như Marx nói - chỉ có súc vật mới quay lưng với nỗi đau của đồng loại, để chăm chút cho bộ lông của mình. Nhưng xem ra súc vật còn có lòng tin với gia chủ của nó được nuôi nấng, vỗ về. Còn với chế độ Việt nam hiện tại niềm tin dân chúng đã không còn 38 năm qua và mãi mãi.

Sức mạnh của một thể chế nhà nước là ở toàn dân, khi niềm tin dân chúng đã cạn kiệt thì, liệu chế độ đó tồn tại được bao lâu? Sức mạnh mềm của một quốc gia là vô hình và vô hạn. Liệu với cách cư xử với đồng bào đã từng vào sinh ra tử cho chế độ như thế thì, sức mạnh mềm của Việt Nam có còn?
 
Nguồn : BS Hồ Hải

Phiên toà lịch sử thứ hai

clip_image002
Phương Uyên tại Nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp
– Dòng Chúa Cứu Thế (Sài Gòn), sau khi được trả tự do

Phiên sơ thẩm tôi không có duyên tham dự dù chỉ ở ngoài đường, nhưng chỉ đọc tường thuật trên mạng, đã đủ cơ sở để nhận định: Đây là phiên tòa lịch sử, vì lần đầu tiên các bạn trẻ lứa tuổi 20 hiên ngang khẳng định mình vô tội, công khai tuyên bố tách bạch Đảng Cộng sản với Nhà nước Việt Nam. 

Phiên phúc thẩm hôm nay tôi thật may mắn.
Không được vào bên trong phòng xử, nhưng lại có cơ hội chứng kiến và tham dự một cuộc biểu dương khí thế của lương tri, của chính nghĩa, của tình đồng bào, đồng đội, của lòng yêu nước đẹp tuyệt vời. 

Hãy đến đây mà coi bà mẹ trẻ địu đứa bé một tuổi trước ngực lặn lội cả ngàn cây số vào đây chia lửa cho hai bà mẹ của Uyên và Kha, mà xem các cụ bảy mươi cùng các cháu gái trai nằm lăn xuống đường chặn bánh xe hung bạo bắt người, mà nghe tiếng hát vang “Dậy mà đi” do người cựu tù Côn Đảo tóc bạc phơ khởi giọng, nghe tiếng hô “Đả đảo Trung Quốc xâm lược”, “Đả đảo bọn tay sai bán nước!”, “Uyên – Kha vô tội”… đánh thức cả khu trung tâm thành phố Tân An lâu nay tưởng như chỉ chăm chú chuyện làm ăn, khiến một bác xe ôm rơi lệ, một bà bán quán chạy tới ôm chầm người mẹ có con đang lâm nạn, khiến hàng trăm người đi đường dừng lại lắng nghe. Hãy nhìn cảnh một rừng công an cảnh sát, dân phòng tự vệ… ngây mặt nghe một người đàn bà sang sảng kêu gọi “Hãy tìm một lối quay súng trở về với nhân dân”!

Phiên phúc thẩm Uyên – Kha sẽ đi vào lịch sử vì nó đã biến thành cuộc biểu tình kết tinh ý chí của toàn dân. Đó là NHÂN DÂN của chúng ta, một khi đã xé được khăn bị mắt, tháo được vòng kim cô, vượt qua được nỗi sợ, sẽ bộc lộ hết sức mạnh của mình! Thật tiếc cho các nhà cầm quyền cấp cao không biết vi hành để tận mắt chứng kiến mà thấu hiểu lòng dân ngày hôm nay. Họ sẽ thấm thía thế nào là sức mạnh “lật thuyền” nếu đi ngược dòng nước, nhưng đồng thời họ sẽ có lòng tin để lèo lái con thuyền đất nước vượt qua mọi thác ghềnh nếu biết dựa vào sức “nâng” của nước.
Không được vào bên trong phòng xử, nhưng cũng như phiên sơ thẩm, tôi lại được nghe tường thuật những lời tuyên bố hiên ngang của hai bạn trẻ. Nhất là lời Phương Uyên, chững chạc, tự tin khiến không ít người phải ngỡ ngàng: “Tôi không cần giảm án, chỉ cần xử đúng người đúng tội… Chống Đảng Cộng sản không phải chống phá đất nước, dân tộc!”. Một lần nữa, những lời đi vào lịch sử!

Và niềm vui bất ngờ đã nổ ra như sấm động: Nguyên Kha được giảm nửa mức án sơ thẩm, Phương Uyên được trả tự do ngay tại tòa!
Hãy đến đây mà xem cuộc đón rước Phương Uyên trước trại giam Long An và nghênh tiếp em tại Nhà dòng Chúa Cứu thế Sài Gòn như hậu phương đón người nữ anh hùng từ tiền tuyến chiến thắng trở về. Em xanh, gầy, nhưng ánh sáng thiên thần tỏa ra trên gương mặt, ánh mắt, nụ cười và tấm áo trắng học trò mà ngục tù không thể vấy bẩn. 

Rõ ràng một phiên tòa lịch sử: Lần đầu tiên, chính quyền buộc phải thay đổi căn bản bản án đối với một tù nhân chính trị!
clip_image004

Sự vui mừng bừng lên trong tiếng cười và từ sâu xa trong lòng chúng ta: Phải chăng đây là dấu hiệu đầu tiên của bước chuyển hướng từ độc tài hắc ám sang con đường dân chủ tươi sáng? 

Còn phải chờ những sự kiện tiếp theo để có thể khẳng định niềm tin ấy.

Nhưng có một điều không thể nghi ngờ: Những cuộc đấu tranh liên tục, không mỏi mệt của hàng ngàn người thuộc mọi tầng lớp do các nhân sĩ trí thức khởi xướng, được sự hưởng ứng rộng rãi của đồng bào hải ngoại và bạn bè quốc tế đã có tác động thực sự đến thắng lợi bước đầu của phong trào dân chủ nhân quyền hôm nay. Hỡi những ai có lúc chán nản, hoài nghi hiệu lực của cuộc đấu tranh bất bạo động, xin hãy lấy lại niềm tin, lấy lại lòng tự hào của những con người trong tay không tấc sắt nhưng luôn có trong lòng một con tim được nuôi bằng máu đỏ Lạc Hồng!

Và với những bạn băn khoăn với câu hỏi: “Khi nào là thời cơ của Dân chủ?”, tôi nghĩ rằng cuộc biểu dương lực lượng của nhân dân tại phiên tòa phúc thẩm Uyên – Kha hôm nay đã cho ta lời đáp: “Thời cơ do chính chúng ta tạo nên!”
Đêm nay là một trong những đêm vui nhất đời tôi!
12 giờ đêm 16/8/2013
 Nguồn : Hoàng Hưng
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.

16 thg 8, 2013

Phá xiềng

Nguyên Giám đốc chánh trị chủ bút nhật báo Tin Sáng
Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP Hồ Chí Minh
Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

Vận hội mới cho nước nhà đã đến…
Một chính đảng mới đang được vận động hình thành, với tên gọi tạm là Đảng Dân chủ Xã hội, do ông Lê Hiếu Đằng, một đảng viên cộng sản với 45 tuổi đảng, khởi xướng. Sẽ có hàng trăm, và rồi đây hàng ngàn đảng viên cộng sản đồng loạt khước từ độc tài toàn trị, thành lập chính đảng mới để đấu tranh công khai với Đảng Cộng sản cầm quyền.
Đảng mới Dân chủ Xã hội là một đột phá khẩu lịch sử, cho nước tràn bờ, cho muôn người Việt Nam đứng dậy phá xiềng, vươn vai thành Phù Đổng, chống lại nội tặc, ngoại thù, cứu nước cứu dân và cứu cả chính mình.

Đảng mới Dân chủ Xã hội chủ trương xây dựng một chế độ dân chủ thật, một đời sống tự do thật, một xã hội công bằng thật, đối lập với đảng cộng sản chuyên quyền chủ trương xây dựng một chế độ xã hội chủ nghĩa muôn vạn lần dân chủ láo, trên nền móng cướp đoạt mọi quyền cơ bản của người dân.
Tổ tiên nòi giống đang ủng hộ, cỗ võ sự ra đời của Đảng Dân chủ Xã hội mới. Các đảng chánh trị yêu nước, với các chiến sĩ đã hy sinh hay còn sống, bị bức tử gần đây hay từ trước, đề Đảng Cộng sản có điều kiện độc tôn độc quyền cai trị đất nước trong nhiều chục năm qua, đang ủng hộ các bạn. Các tiền bối yêu nước thương dân của mọi thời kỳ, cả các đảng viên cộng sản lão thành đã hy sinh hay đang uất nghẹn trước sự phản bội của một phường tham nhũng trục lợi, đang ủng hộ các bạn. Vong linh hàng vạn thanh niên nam nữ tuổi hai mươi, không phân biệt giới tuyến, nguồn gốc xuất thân, trong mọi thời kỳ tình huống quốc biến đã ngã xuống để toàn dân đứng thẳng làm người tự do độc lập, đang ủng hộ các bạn. Hàng vạn gia đình nạn nhân các đợt cải cách, cải tạo đang ủng hộ các bạn. Hàng vạn gia đình nạn nhân chết tức chết tưởi, trên biển trên bờ, khổ nhục ê chề hơn cả cái chết trên đường vượt biên … đang ủng hộ các bạn. Toàn thể nông dân đang ủng hộ các bạn. Và các thế hệ con cháu nông dân bị cắt đứt quá khứ vì bị cướp quyền thừa kế ruộng đất, bị cắt đứt tương lai vì bị tước quyền sở hữu trên mảnh đất ông cha nhiều đời gầy dựng để lại, đang thúc giục các bạn. Lực lượng các anh chị em công nhân bị buộc vào các “công đoàn vàng”, tối mặt làm công rẻ mạt cho các tập đoàn nhà nước câu kết với các tập đoàn nước ngoài mà không được có tiếng nói, đang ủng hộ các bạn. Các ngư dân và gia đình các ngư dân nước ta bị bọn phỉ Bắc Kinh rượt đuổi, bắt bớ, làm nhục ở Biển Đông đang giục giã các bạn. Hàng hàng lớp lớp học sinh sinh viên mong muốn được thật sự “mở mang dân trí để chấn hưng dân khí”, thay cho một hệ thống giáo dục ngu dân, đang khẩn thiết kêu gọi các bạn. Các nhà kinh doanh, những người dân làm ăn lương thiện, hàng ngũ trí thức, nghệ nhân, văn nghệ sĩ, báo chí trên cả nước khát khao tự do tư tưởng, sáng tác, tự do kinh doanh, tự do làm báo, tự do bày tỏ ý kiến, đang hối thúc các bạn. Các chức sắc và nam nữ tín đồ các tôn giáo đang khao khát tự do hành đạo cứu thế độ người đang mong chờ các bạn…
Toàn thể đồng bào bị lấy mất mọi thứ tự do, dù là cơ bản nhất, trên một đất nước người người bị rình rập như trong một trại cải tạo khổng lồ, đang thúc bách các bạn. 

Tôi kêu gọi các bạn đảng viên cộng sản thật sự yêu nước, từng cả đời dấn thân đấu tranh vì lý tưởng độc lập Tổ Quốc, tự do dân chủ và nhân đạo, nhưng ngày càng nhận thấy đã bị đảng mình phản bội, mà số này là rất đông, hãy mạnh dạn dứt khoát đứng vào hàng ngũ Đảng Dân chủ Xã hội mới. Đặc biệt các đảng viên trẻ và giới trẻ nói chung hãy nắm lấy cơ hội làm nên lịch sử. Vì đất nước thời nào cũng vậy, đặc biệt những lúc lâm nguy, là luôn thuộc về tuổi trẻ, là của tuổi trẻ. 

Đứng vào hàng ngũ Đảng mới để tính toán nợ nần với quá khứ lịch sử, với dòng tộc, với chính mình; giũ sổ với đảng cầm quyền toàn trị; mở một trang mới cho tương lai dân tộc.
Đứng vào hàng ngũ Đảng Dân chủ Xã hội mới ngày nay là yêu nước. Không chần chờ, đắn đo, hay e sợ bị bắt bớ, trù úm.
Một ông chủ Đảng Cộng sản ở cấp cao, vừa là Chủ tịch Nước, đã từng nói: “Người ta có thể trù úm một người, một nhóm người, nhưng không thể trù úm một dân tộc”…
Mà làm sao trù úm, bắt bớ cả dân tộc, nếu không là tự làm đắm chiếc tàu họ đang ngồi trên đó?

Còn trù úm bắt bớ một người hay một nhóm người thì sao?
Trù úm bắt bớ một người là tự đục một lỗ thủng trên đáy tàu; trù úm bắt bớ một nhóm người công khai tranh đấu bất bạo động cho chánh nghĩa dân tộc, cho nhân quyền, dân quyền… là tự phá hỏng từng mảng lớn trên mạn tàu để mau giúp nó tự chìm dần. 

Tôi, và nhiều bạn như tôi, tuy không còn sức trẻ, nhưng cũng nguyện đi theo các bạn, sẵn sàng đón những cú đá sau lưng các bạn.
Từ đảng mới này, và từ hành động của đảng đó, tôi tin sẽ xuất hiện những nhà lãnh đạo trẻ, mới, những nhà quản lý mới, trẻ, giỏi để cứu nước, cứu dân, ngăn ngừa họa ngoại xâm, và làm giàu cho dân cho nước. 

Lòng dân đang dậy sóng. Cả nước đang mong chờ Đảng mới phất cờ hành động để cứu nước.
Đảng Dân chủ Xã hội Việt Nam mới nhất định thắng lợi.
Dân tộc Việt Nam nhất định thắng lợi.
Đất nước Việt Nam nhất định tự do, dân chủ thật sự và giàu mạnh. 

Sài Gòn, ngày 15 tháng 8 năm 2013.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.

TRẦN ĐỘ - NGƯỜI CỦA SỰ THẬT

Bài viết của anh Vũ Thư Hiên - tác giả của cuốn: Đêm giữa ban ngày - anh viết vài kỷ niệm vặt với ông Trần Độ nhân 11 năm ngày mất của Trung tướng Trần Độ. Tôi xin phép anh mang nó về để ở blog như một kỷ niệm về ông. 
Cũng vào mùa hè này năm 1989, tôi được dịp ngồi nghe ông Trần Xuân Bách nói chuyện về đổi mới 3h đồng hồ tại Đại học xá Minh Mạng cũ - nay là Ký túc xá Ngô Gia Tự. Tôi cũng chỉ biết ông Trần Độ và ông Nguyễn Hộ qua 3 số báo "Truyền thống kháng chiến" hồi 1989. Ba nhân vật Trần Xuân Bách, Trần Độ và Nguyễn Hộ bị gãy gánh trong công cuộc đổi mới của mình vì dân, vì nước. Từ đó, họ đã đi vào lịch sử dân tộc như những người tiên phong, nhưng chưa đúng thời cuộc.

Tôi ra tù cuối năm 1976. Bận bịu với đủ thứ việc để kiếm ăn, hai năm sau tôi mới có dịp gặp lại Trần Độ. Ra khỏi cuộc chiến, với tư cách phó chính uỷ kiêm phó bí thư quân uỷ Quân Giải phóng MNVN, nghe nói anh rất bận, nào tham gia viết quân sử, nào tổng kết kinh nghiệm chiến tranh… Trong bữa rượu đạm bạc chỉ có ba người, ngoài hai chúng tôi còn có một chị cán bộ trẻ, tên Oanh thì phải. Trần Độ có biết tôi vừa ở tù ra. Anh nhìn tôi thương hại, bảo:

- Chú có làm gì sai thì Đảng mới bắt chú chứ.

Tôi sững người. Vậy ra anh chẳng biết gì về vụ án nhóm "xét lại chống đảng" mà tôi bị người ta đính vào sao? Cái nhóm này không phải một tổ chức, chẳng phải một đảng, thậm chí cũng chẳng phải một nhóm, nhưng được người ta bịa ra, đặt tên rất kêu là “Nhóm tổ chức chống Đảng, chống Nhà nước ta, đi theo chủ nghĩa xét lại hiện đại và làm tình báo cho nước ngoài”. Kỳ thật, một vụ án ầm ĩ như thế, nhiều cán bộ cao cấp bị khai trừ, bị bắt, bị bỏ tù, trong Đảng có báo cáo, rất nhiều người biết, mà anh lại không biết. Mà không phải mình anh không biết. 

Hơn chục năm sau (1988), khi tờ “Truyền thống Kháng chiến” của “Câu lạc bộ Những Người Kháng Chiến Cũ” ra đời ở Sài Gòn, tướng Trần Văn Trà kêu tôi tới nhà anh ở đường Nguyễn Thị Minh Khai (tên mới của đường Pasteur) để bàn chuyện tờ báo, tôi mới hiểu - thậm chí cả tướng Trần Văn Trà cũng chẳng biết gì về vụ này. “Hồi đó tôi đang lo đường vận chuyển vũ khí trên biến. – Trần Văn Trà nói - Có, tôi có nhận được một thông tin từ Ban tổ chức Trung ương, rất sơ sài. Chúng tôi bận tối tăm mặt mũi, chẳng ai để ý”. 

Khiếp thật. Thì ra ngay ở trong Đảng người ta cũng chia ra nhiều cấp, nhiều đối tượng trong việc nhận hoặc không cần được nhận thông tin. Tôi dùng chữ Đảng viết hoa ở đây để chỉ cái đảng độc tôn, cho tiện, chứ không phải với ý khác.

Tôi cười buồn, nói với Trần Độ:

- Em có nói gì bây giờ anh cũng sẽ nghĩ là em thanh minh. Tốt hơn hết là ta cạn với nhau chén rượu này, kèm một giao ước: “Anh sẽ xem xét sự việc bằng con mắt của mình, để rồi có kết luận”. Em chờ câu trả lời của anh trong bữa rượu sau. Anh hứa chứ?

Anh gật đầu, cạn chén.

Trần Độ hơn tôi đúng 10 tuổi. Tôi coi mình là đứa em của anh, không dám lắm lời.

Rồi gần một năm sau mới có bữa rượu thứ hai. 
- Em lắng nghe câu trả lời của anh. – tôi nói.
Anh lắc đầu, thở dài:
- Một lũ chó má! Không thể ngờ.

Nhiều thời gian trôi qua với rất nhiều sự kiện: anh chuyển qua công tác Đảng, và công tác dân sự: Trưởng ban Văn hoá-Văn nghệ, Thứ trưởng Bộ Văn hoá, Phó Chủ tịch Quốc Hội, anh hoạt động tích cực trong những chức trách được Đảng giao phó, sau đó những tiếng xì xào trong nội bộ Đảng về những hành xử không đúng đường lối, không có đảng tính của anh (xúi giục tổng bí thư Nguyễn Văn Linh “cởi trói” cho văn nghệ sĩ, tháo gỡ việc ngăn sông cấm chợ, toa rập với Nguyên Ngọc đưa ra bản “Đề dẫn” về văn nghệ sặc mùi chống Đảng vv…). 

Cũng vào thời gian đó, tôi biết anh khuyến khích nhiều người làm công việc tìm về cội nguồn các dòng họ. Chẳng bao lâu sau, tôi được một anh bạn ở Bộ Nội vụ cho tôi đọc một chỉ thị của bộ anh: “Bọn phản động đang dùng kế sách tìm về cội nguồn (nhận họ, họp họ) để hạ thấp vai trò của Đảng. Phải ngăn chặn việc này”. Anh Hoàng Minh Chính bình: “Hay! Trong các cuộc họp họ, anh bí thư Đảng vốn được coi là cao hơn hết trong mọi vai vế xã hội, thì nay có thể bị ông trưởng tộc quát: “Anh ra ngồi kia, đây là họp họ, không phải họp đảng hay chính quyền”! 

Văn Cao là người rất chăm chú theo dõi thời cuộc, nói: “Trần Độ thẳng quá, hỏng! Cao Biền dậy non, phí”! 

Tôi đồng ý với Văn Cao. Trần Độ được phong trung tướng cùng lúc với Lê Đức Anh, nhân vật sau này làm mưa làm gió trong chính trựờng, nếu biết xuôi dòng anh rất có thể sẽ lên cao nữa trong hệ thống quyền lực. 

Nhưng không ai có thể can ngăn Trần Độ. Anh không phải là nhà chính trị biết lui tới, biết náu mình chờ thời. Anh hành xử như một người thẳng thắn, chỉ biết một mực đấu tranh cho chân lý. Những phát biểu của anh lúc này lúc khác, chỗ này chỗ nọ, luôn làm chối tai người cầm quyền. Mà có phải anh chỉ phê bình sơ sơ chế độ toàn trị, từ chỗ nhỏ nhẹ, anh dần dần nói trắng ra ý muốn thay thế nó bằng chế độ dân chủ, tam quyền phân lập… Người ta theo dõi anh từng bước, nên những lời nói của anh, dù trong chỗ thân tình, đều được thu thập, báo cáo lên “trên”. 

Còn nhớ năm 1997 tôi ở thành phố Strassbourg, chung nhà với Nguyễn Chí Thiện. Một hôm, Trần Độ gửi cho tôi bài viết mới của anh, bảo tôi xem lại trước khi công bố. Tôi đưa anh Thiện cùng đọc. Thiện đọc, nói anh bất bình với một số câu chữ trong đó. Khi nói chuyện điện thoại với Trần Độ, tôi đưa ống nói cho Thiện, bảo nhà thơ cứ nói thẳng ý kiến của mình. Thiện bỗ bã: “Không hiểu sao anh vẫn còn có thể dùng những từ “giải phóng”, “Mỹ-nguỵ” trong bài viết, người đọc ở hải ngoại sẽ khó chịu, không hay chút nào”. 

Anh Độ cười hề hề: “Chết chửa, mình lỡ viết theo cách nói quen đấy, cậu đúng, sửa lại hộ mình nhá. Xem ra thói quen thật nguy hiểm, là một cái tật cần phải đấu tranh để loại bỏ”. 

Chuyện Trần Độ bị khai trừ Đảng năm 1999 thì ai cũng đã biết. Đảng cộng sản vốn không thích vạch áo cho người xem lưng cũng đã kiên nhẫn lắm với Trần Độ. Lẽ ra người ta phải khai trừ anh từ lâu. 

Một lần khác, ở Frankfurt am Main (CHLB Đức), trong cuộc trò chuyện điện thoại với Trần Độ vào năm 2001, có mặt một chú em rất hâm mộ bác Độ, chú này đòi được nói với bác vài câu: “Bác ơi, cái đảng của bác kỳ quá, ai lại chống tham nhũng mà lại chống từ cấp cơ sở? Quét nhà thì người ta phải quét từ tầng trên xuống tầng dưới chứ!”. Anh Độ cười lớn:”Hay, cậu nói rất hay. Chỉ sai một chút thôi, cái đảng ấy không phải của tôi. Cậu tên gì ấy nhỉ?”, “Dạ, cháu tên Cóc, Nguyễn Văn Cóc. Dễ nhớ lắm, bác ạ. Ở Đức này chỉ có mình cháu có cái tên xấu xí ấy thôi”. Anh Độ lại cười: “Xấu gì mà xấu, cậu ông Giời phán đúng lắm, cái đảng ấy toàn làm lộn ngược thôi!”. 

Anh nói anh bị đảng của anh khai trừ là may. Như thế, anh được rũ khỏi trách nhiệm “trước những vũng bùn mà cái đảng ấy đang chui vào một cách được gọi là sáng tạo”. Khai trừ anh ĐCS thêm một lần phô trương cái hẹp hòi của mình, không chịu nghe bất kỳ lời nói ngược nào. Hành hạ anh cho tới khi chết, cấm người đi đưa tang không được dùng chữ “Vô cùng thương tiếc”, ĐCS lại càng cho thiên hạ thấy nó tiểu nhân tới mức nào trong sự hằn thù.

Đảng của anh khai trừ anh, bù lại anh được nhân dân đón anh vào lòng. Anh bị nhà cầm quyền căm ghét, bù lại anh được tình yêu thương của đồng bào. Anh được rất nhiều, mà không mất gì, nói cách khác, cái người ta cho là mất chẳng đáng gì với anh. 

Khi lâm bệnh, anh không cần dùng đến thuốc của nhà nước mà anh ngờ vực, đã có đồng bào gửi thuốc cho anh. Trong những người lo lắng cho anh tôi muốn kể hai người rất sốt sắng lo cho anh tới ngày cuối cùng là Tưởng Năng Tiến và Đinh Quang Anh Thái. Trong những bức thư hiếm hoi gửi cho tôi, anh không bao giờ quên nhắn tôi gửi lời cảm ơn hai bạn mà anh không biết mặt. 

Được tin anh mất, tôi không khóc nổi. Nước mắt chảy ngược vào tim. Tôi cảm được rằng mất mát này lớn hơn rất nhiều mất mát cho riêng tôi, đứa em yêu mến và kính trọng anh. Mất mát này là của cả dân tộc đang nhọc nhằn, vất vả đi tìm quyền sống, quyền làm người.

Trong bức thư cuối cùng Trần Độ gửi cho tôi trước khi mất, anh dặn: “Giai đoạn chuẩn bị cho sự chuyển đổi chế độ có thể kéo dài. Việc hàng ngày của ta, không được quên, là nâng cao dân trí. Dân trí được nâng cao bao nhiêu thì sự chuyển đổi sẽ thuận lợi bấy nhiêu. Thời cơ đến, việc mới thành. Chuẩn bị tốt thì thành tốt”. 

Thời cơ mà ta chờ đợi sẽ đến, bao giờ cũng bất ngờ, nhưng vẫn là quy luật. Như nó đã từng xảy ra cùng với sự kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai đã đưa lại nền độc lập cho các nước thuộc địa. Như nó đã đến với sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu.


Paris, 22h ngày thứ Hai, 11/8/2013

NGHĨ VỀ HIỆN TƯỢNG TRẦN ĐỘ

Nói như vậy, vì người viết muốn nhìn ra ở đây "một hiện tượng lịch sử" có ‎ nghĩa biểu tượng.
Lịch sử đi tới theo đội hình hình thoi chứ không "dàn hàng ngang mà tiến". Bao giờ những người đi trước cũng thuộc số ít. Càng ít hơn nữa là những ngươi có tầm mắt vượt lên phía trước, nhìn thấu được những điều mà nhiều người đồng hành chưa nhìn ra, hoặc nhìn nhưng chưa thấy, hoặc thấy nhưng chưa rõ. Và càng sát cái điểm đầu chóp hình thoi ấy thì càng đơn độc! Trần Độ là một hiện tượng, đúng hơn, là một bằng chứng rất sống động về sự "đơn độc của tia chớp" đang dẫn dắt suy tư của người viết nhân ngày mất của ông, 9. 8. 2002.
Nhận thức là một quá trình, điều này chẳng có gì mới đáng nói. Cái đáng nói hơn vào thời điểm này là: với sự kiểm nghiệm của thời gian, có những con người đã trở thành một  hiện tượng lịch sử vì nó là biểu tượng sống động về sự oái oăm của lịch sử trong nhận thức về lịch sử. Mà trớ trêu thay, chính sự oái oăm đó làm nên lịch sử. Làm nên bằng chính cái tầm vươt lên phía trước ấy. Chẳng thế mà Voltaire từng khuyến cáo rằng "Lịch sử không nên đề cập đến sự thăng trầm của các ông vua mà là trào lưu tiến hoá của dân tộc, không nên đề cập đến từng quốc gia riêng rẽ mà là toàn thể nhân loại, không nên đề cập đến chiến tranh mà là đề cập đến sự phát triển của tư tưởng. Những trận đánh, những đoàn quân chiến thắng hoặc chiến bại, những thành phố bị chiếm đi hoặc lấy lại là những sự kiện quá tầm thường, không nói lên điều gì quan trọng. Điều quan trọng là con người sống và suy nghĩ như thế nào qua các thời đại... qua những giai đoạn nào con người đi từ trạng thái man rợ đến trạng thái văn minh”.*
Không hiểu có phải lẩn thẩn không mà người viết bài này những cứ muốn bạo gan đặt ra câu hỏi với nhà Khai sáng Pháp: liệu dưới tác động nào đó, trong một thời đoạn đau thương nào đó, có thể có quá trình ngược lại, một cơ chế phi lý‎ đẩy con người đi từ trạng thái văn minh trở lại với trạng thái man rợ ? Trần Độ có bốn câu thơ dưới dạng "tự bạch": 
                                          Những mơ xoá ác ở trên đời
                                            Ta phó thân ta với đất trời
                                         Ngỡ ác xóa rồi thay cực thiện
                                           Ai hay, biến đổi, ác luân hồi.
 
Liệu nỗi niềm "ai hay, biến đổi, ác luân hồi" có chút bóng dáng nào của cái cơ chế phi lý kia không? Vì rằng, nếu cứ nhìn về nhân thân và sự nghiệp theo một nếp hằn rất chi là "lập trường quan điểm" từng chi phối đời sống tinh thần xã hội gần hai phần ba thế kỷ nay, thì con người này là một mẫu mực sáng giá, một điểm son chói lọi trong những trang sử hiện đại: Đi làm cách mạng từ năm 16 tuổi, vào đảng năm 17 tuổi, vào tù, cắn răng chịu tra tấn trong các nhà tù đế quốc , vượt ngục về hoạt động bí mật vào những ngày "tiền khởi nghĩa", góp phần vào Cách Mạng tháng 8.1945, đảm nhiệm vai trò chính ủy Mặt trận Hà Nội "cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh" những ngày Thủ đô rực lửa năm 1946, tiếp đó là chính ủy trung đoàn, chính ủy đại đoàn, chính ủy quân khu, rồi phó chính ủy và phó bí thư quân ủy, được phong hàm thiếu tướng rồi trung tướng, được bầu làm Phó Chủ tịch Quốc hội, ủy viên BCHTƯĐCSVN, Trưởng ban văn hóa văn nghệ TƯ.
Dù được quy chiếu theo những hệ thống giá trị nào thì cuộc đời dấn thân hết mình cho tổ quốc, nằm gai nếm mật, vào tù ra tội, luôn đứng ở mũi nhọn của cuộc chiến tranh cứu nước, con người này có một cuộc sống thật đẹp! Càng đẹp theo kiểu "ta phó thân ta với đất trời" chứ không chỉ vì những chức vụ, danh vọng mà ông có được bằng sự dấn thân kia !
Ấy thế mà khi con người ấy nằm xuống, người ta quyết không cho cuộc đời "thương tiếc" ông. Dùng một con rôbốt vô hồn để thực hiện một công vụ táng tận lương tâm là kể tội ông trong điếu văn đọc trước linh cữu người quá cố, người ta đã chà đạp lên truyền thống "nghĩa tử là nghĩa tận" trong đời sống dân tộc. Cái đáng sợ nhất, khủng khiếp nhất chính ở chỗ này đây.
Một giải pháp vô văn hóa, phản tâm linh được thực thi một cách triệt để theo lối "đào tận gốc, trốc tận rễ" khi người ta "trả nghĩa" cho ông "Trưởng ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương" của đảng bằng hành động vô văn hóa đó. Một hành động được hoạch định kỹ càng và đóng dấu ở nơi cao cấp nhất! Từ cách công bố tin ông mất sát kề ngày tang lễ để đồng chí, đồng đội của ông không đến kịp nhằm giảm tối đa số người "thương tiếc" ông tại nhà tang lễ đến chuyện xé bỏ những băng tang đính trên vòng hoa nếu có chữ "vô cùng thương tiếc" và rồi bài điếu văn phản nhân văn, ráo cạn nhân tình không tiền khoáng hậu đi vào lịch sử như một vết nhơ không sao xóa mờ đi được!
Xin chen vào đây một mẩu chuyện: vòng hoa của người viết bài này nhờ một người bạn vốn là lính của tướng Độ mang đến nhà tang lễ. Hai vị CA chặn lại, yêu cầu gỡ bỏ mấy chữ "Vô cùng thương tiếc" .Vị cựu chiến binh là thương binh chiến đấu ở chiến trường Miền Tây cố làm nhẹ sự căng thẳng bằng một đề nghị hóm hỉnh:" thế tôi sửa lại là "thương tiếc vừa vừa đồng chí Trần Độ nhé". CA trừng mắt, quát. Xô xát có cơ xảy ra vì anh thương binh "quân của tướng Độ" đã xắn tay áo. Ánh mắt đang đổ dồn về đây. Một vị đeo lon trung tá vừa lịch lãm vừa xử sự rất "có nghề" đã nhanh chóng xin lỗi người cựu chiến binh, vừa gạt tay thuộc cấp định gỡ vòng hoa, rồi mời người cựu chiến binh mang nó cùng đi. Nhưng khi đến gần bậc thềm nhà tang lễ thì anh ta nói " theo quy định, chúng tôi phải trực tiếp chuyển vòng hoa, đồng chí cứ đứng đây". Thế rồi y nhấc bổng vòng hoa đi vòng ra phía sau, mất hút!
Gọi điện kể lại, người cựu chiến binh tự hào là "quân của tướng Độ" đó an ủi: "thôi chú ạ, thế là mình cũng đã thể hiện được tấm lòng và ý chí trọn nghĩa vẹn tình với ông ấy, người sẽ đi vào lịch sử. Đến vòng hoa của Đại tướng Võ Nguyên Giáp mà chúng nó cũng đòi bóc, đại tá Huyên quyết liệt đấu tranh, cuối cùng cũng đành chỉ còn hai chữ "thương tiếc", phải bỏ hai chữ "vô cùng" trên vòng hoa tang của bậc công thần, người anh cả của quân đội cụ Hồ gửi viếng một vị tướng từng chỉ huy Mặt trận quyết tử của Hà Nội mở đầu cuộc chiến tranh giữ nước để rồi có mặt trên tất cả các mặt trận nóng bỏng nhất cho đến khi kết thúc chiến tranh, mà chú!
Có thể ai đó khi hạ lệnh gỡ bỏ những dòng chữ "vô cùng thương tiếc" trên vòng hoa tang đã cạn nghĩ, hoặc mê muội trong nguyên lý khủng khiếp từng thuộc nằm lòng về sự chuyên chính đối với kẻ thù giai cấp, đã không lường trước được hệ lụy cũng khủng khiếp không kém của quyết định dại dột bất cận nhân tình ấy. Trong tâm thức của dân tộc, vết nhơ kia sẽ không có cách gì rửa sạch được. Và nếu như ông cha ta dạy "gươm dơ lấy nước làm sạch, nước dơ lấy máu làm sạch" thì rồi đây lấy gì để rửa vết nhơ lịch sử kia đây? Xét cho cùng, vết nhơ lịch sử này chính là nỗi đau văn hóa.
Đây là điều mà M.Gorki, một thời được mệnh danh là "nhà văn vô sản vĩ đại" từng chiếm lĩnh trọn vẹn các giáo trình lý luận văn học của các trường đại học và sách dạy phổ thông ở nước ta đã từng quyết liệt cảnh báo ngay từ những năm 1917-1918 [đương nhiên là người ta dấu nhẹm sự cảnh báo này]: "Cách mạng đã đánh đổ nền quân chủ, điều đó đúng! Nhưng điều đó có lẽ cũng có nghĩa rằng cuộc cách mạng đã mang chứng bệnh ngoài da vào bên trong nội tạng. Người ta không được phép tin rằng cách mạng đã chữa trị và làm phong phú cho nước Nga về mặt tinh thần". Chính vì vậy, M.Gorki viết: “Đối với tôi, lời kêu gọi Tổ quốc lâm nguy cũng không đáng sợ hơn lời kêu gọi “Hỡi các công dân! Văn hóa bị lâm nguy”!**
Sư suy thoái đạo đức đích thực, chứ không phải sự gán ghép tùy tiện do sự lú lẫn đầy ác ý, là biểu hiện dễ thấy của "sự lâm nguy" này. Sự lâm nguy bắt đầu từ khi người ta "đã mang chứng bệnh ngoài da vào bên trong nội tạng" của cả dân tộc. Càng nguy hiểm hơn khi, thay vì "phải được trui rèn trong ngọn lửa cháy không bao giờ dứt của văn hóa, tinh thần nô lệ đã hằn sâu trong nó phải bị tẩy sạch đi", thì người ta làm ngược lại, tàn phá văn hóa.
Sẽ quá dài nếu phải liệt kê ra đây sự tàn phá đó khi mà chỉ lẩy riêng ra "một hiện tượng Trần Độ", nói chính xác hơn, cách ứng xử với ông Trưởng Ban Văn hóa Văn Nghệ Trung Ương Trần Độ khi ông nằm xuống, cũng đã quá đủ để minh họa một cách sống động về điều này.
Trong một bài gần đây trên tạp chí "Văn Hóa Nghệ An" ngày 31.7.2013, giáo sư Nguyễn Minh Thuyết lưu ý‎ rằng: "quan sát trong xã hội, đạo đức suy thoái, đúng là chưa bao giờ đất nước ở vào tình trạng như hiện nay. Nói cách khác, trong lịch sử chỉ thời mạt mới xuất hiện những chuyện như thế...". Ông dẫn trong "Hoàng Lê Nhất thống chí" lời học trò của L‎ý‎ Trần Quán trả lời thầy khi bị ông mắng về tội bắt Chúa Trịnh Tông nộp cho Tây Sơn: “Sợ thầy không bằng sợ giặc, yêu chúa không bằng yêu thân” để đưa ra nhận định: "Có thể nói đó là câu nói điển hình cho sự suy thoái.... Còn về các nước, có thể nói, nếu so sánh, phải thấy là những xã hội có hiện tượng như thế này là xã hội kém phát triển. Xã hội văn minh cũng có những hiện tượng này nhưng nó không bệ rạc, không phổ biến như thế"....Quả đúng vậy. Nhưng để cho trọn vẹn hơn thì xin mạo muội đề nghị giáo sư Thuyết trích thêm một dòng nữa ở trang 106 trong sách nói trên, con người "lừa thầy phản chúa" ấy rồi "được phong làm Tráng Nghĩa hầu thêm chức Trấn thủ Sơn Tây"! Chính cái "được" này mới là động cơ mãnh liệt thôi thúc những chuyện lừa thầy, phản chủ mà giáo sư gọi là "suy thoái" kia.
Những con "rô bốt" vô hồn, dù là cao sang quyền quý, danh gia vọng tộc hay lưu manh chính trị mạt hạng đang nhan nhản khắp nơi, hoặc tác oai tác quái với dân, hoặc lên mặt đạo đức giả đi rao giảng đạo đức lấy đó làm cái lá nho để che đi những xấu xa thối nát quá lộ liễu, hoặc nói một đằng làm một nẻo mất hết liêm sỉ mà dân gian gọi là đã đứt giây thần kinh xấu hổ ...xét đến cùng chính là vì cái được ấy! Ngay cả những người đang theo lý thuyết "mắc-kê-nô", tạm bằng lòng với ngôi nhà vừa tậu, chiếc ô tô đời mới hay cái công ty của con đang làm ăn yên ổn đang xua tay "không muốn động đến chuyện chính trị" thì trong sâu thẳm tâm hồn họ, cái động cơ mãnh liệt kia vẫn đang khởi động.
Xét đến cùng, vâng, xét đến cùng, cái "được" kia, nói chữ nghĩa ra là lợi ích nhận được từ cái cơ chế sản sinh ra những "rôbốt" vô hồn kia chính là chất xi măng gắn kết chúng với nhau vì lợi ích, và cái đem lại lợi ích nhanh chóng nhất chính là quyền lực. Trong bài viết cách đây chưa lâu, người viết này đã  nói về quy luật này: "Quyền lực thúc đẩy việc mở rộng vô hạn độ quyền lực, và hầu như không có điểm dừng. Nhưng "quyền lực lại có xu hướng tha hóa và quyền lực tuyệt đối thì tha hóa cũng tuyệt đối” (Power tends to corrupt and absolute power corrupts absolutely, có người dịch từ "corrupt" là "tham nhũng" trong những văn cảnh nhất định nào đó). Chế độ toàn trị phản dân chủ là nguyên nhân sâu xa cho cái chuyện "quyền lực tuyệt đối thì tha hóa cũng tuyệt đối " ấy. Liệu lịch sử loài người đã biết có bao nhiêu thứ "quyền lực tuyệt đối" như chê độ toàn trị hiện hành?
Thật ra thì vào cuối những năm 50 của thế kỷ trước, Milovan Dijlas, tác giả của "Giai cấp mới", một tác phẩm viết trong tù  được bí mật gửi ra nước ngoài và được in ở New York năm 1957 từng phân tích rất rành mạch về chyện này:
"Đảng sinh ra giai cấp. Sau đó giai cấp tự phát triển bằng chính nguồn lực của mình và sử dụng đảng như là cơ sở...Ở đây, muốn trở thành chủ sở hữu hay đồng sở hữu thì cần phải len được vào hàng ngũ của bộ máy quan liêu chính trị".
Ông chỉ ra rằng: "Giai cấp mới giống như một hình kim tự tháp: đáy to, càng lên trên càng hẹp dần. Để đi lên, chỉ ý chí không chưa đủ, còn cần phải hiểu và "vận dụng lý luận nữa", cần phải quyết liệt trong cuộc đấu tranh với kẻ thù, phải cực kỳ khôn khéo khi xảy ra các cuộc tranh chấp trong nội bộ đảng, phải nắm được nghệ thuật, thậm chí tài năng trong việc củng cố vị trí cho giai cấp nữa".
Vì thế, "cùng với việc củng cố giai cấp mới, khi bộ mặt của nó càng thể hiện rõ, thì vai trò của đảng cũng ngày càng giảm đi. Hạt nhân và cơ sở của giai cấp mới đã hình thành ở bên trong cũng như trên đỉnh quyền lực của đảng cũng như của bộ máy nhà nước. Cái đảng từng có lúc là một tổ chức sinh động đầy sáng kiến, thì nay, đối với những người cầm đầu của giai cấp mới, đảng đã biến thành một vật trang trí, càng ngày chỉ càng kéo vào hàng ngũ của mình những kẻ hãnh tiến, những kẻ muốn nhập vào hàng ngũ của giai cấp mới và đẩy những người vẫn còn tin vào lý tưởng ra".***
"Hiện tượng Trần Độ" liệu có phải là minh chứng sống động về"những người vẫn còn tin vào lý tưởng" bị đẩy ra một cách quyết liệt, quá sức phũ phàng, cạn tàu ráo máng? Mà phải đẩy ra bằng được, vì lý tưởng cao đẹp của con người ấy đang là vật cản cho quá trình "củng cố giai cấp mới ở bên trong cũng như trên đỉnh quyền lực của đảng, cũng như của bộ máy nhà nước".
Chẳng có gì khó hiểu và ví ẩn trong chuyện phũ phàng, cạn tàu ráo máng với Trần Độ. Đây là diễn biến logic về sự tha hóa của quyền lực. Nó đồng thời cảnh báo một nguyên lý sẽ được đẩy tới ngày càng hung dữ và bất chấp đạo lý cũng như luật pháp: quyền lực tuyệt đối thì tha hóa cũng tuyệt đối! Chuyện chà đạp lên đời sống tâm linh trong đạo lý nghĩa tình dân tộc chẳng là gì so với chuyện củng cố bộ máy quyền lực khi "cần phải quyết liệt trong cuộc đấu tranh với kẻ thù, phải cực kỳ khôn khéo khi xảy ra các cuộc tranh chấp trong nội bộ đảng, phải nắm được nghệ thuật, thậm chí tài năng trong việc củng cố vị trí cho giai cấp mới đang nắm quyền"!***
Thế thì làm sao chấp nhận được một ủy viên trung ương đảng, một phó chủ tịch Quốc hội, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, lại đòi hỏi:" Đảng Cộng sản phải tự mình từ bỏ chế độ độc đảng, toàn trị, khôi phục vai trò, vị trí vốn có của Quốc hội, Chính phủ. Phải thực hiện đúng Hiến pháp, tức là sửa chữa các đạo luật chưa đúng tinh thần Hiến pháp. Đó là phải có những đạo luật ban bố quyền tự do lập hội, lập đảng, tự do ngôn luận, luật báo chí, xuất bản. Sửa chữa các luật bầu cử ứng cử tự do, từ bỏ quyền quyết định của cơ quan tổ chức Đảng...".
Càng không thể nào dung nạp được một cách tư duy quyết liệt khi vạch ra rằng:" Không nên lạm dụng chữ cách mạng. Ta bây giờ không phải là cách mạng chống ai cả, không phải đánh đổ ai cả. Xây dựng hoà bình thì phải đoàn kết, có gì trở ngại thì hoá giải nó để tiến lên...không thể lúc nào cũng phải có chương trình hoạt động cách mạng, lúc nào cũng phải hành động cách mạng...
Chính quyền bây giờ không phải là chính quyền cách mạng. Điều đó chỉ có ý nghĩa khi cách mạng vừa mới thành công...Ngày nay chính quyền phải là chính quyền xây dựng. Chính quyền xây dựng thì phải có những chủ trương, chính sách làm cho mọi người dân đều được tự do làm ăn. Và từ đó người dân phải có tự do nói, tự do tìm thông tin và trao đổi thông tin. Như thế tự do làm ăn mới thực hiện được... Ở rất nhiều nơi, nhiều lúc, không cần đến cách mạng. Nhưng ở tất cả các nơi đều cần có tự do, và lớn nhất là “tự do làm ăn” phải có tự do hưởng lợi ích của kết quả sự làm ăn đó.
Nhân dân chỉ muốn tiến hoá, chứ không muốn cách mạng bạo lực! Đất nước ta đã trải qua một thời kỳ lịch sử kéo dài gồm những cuộc chiến đấu chống xâm lược giành độc lập, hoà bình xây dựng, rồi lại bị xâm lược. Và lại chiến tranh chống xâm lược. Qua quá trình đó mà đất nước ta trưởng thành và phát triển. Cho đến nay, đất nước đã được hoà bình độc lập, thống nhất.
Không biết tương lai loài người sẽ phát triển, tiến bộ thế nào và do đó đất nước ta sẽ gặp những tình huống thế nào ? Nhưng chắc chắn là những bước đi sắp tới của ta cũng không có thể lặp lại y nguyên những tình hình trước đây
"Động trời" hơn nữa khi Trần Độ tuyên bố không úp mở: " Chiến tranh lớn và các hoạt động bạo lực, lật đổ càng ngày càng trở nên lạc hậu lỗi thời...Để có tự do và hạnh phúc, không nhất thiết phải có bạo lực, không nhất thiết phải đánh đổ ai. Thậm chí ngày nay có những nền độc lập giành được cũng không cần có bạo lực và chiến tranh"!
Và rồi, người đứng đầu cơ quan lãnh đạo văn hóa văn nghệ mà lại công khai nói thẳng cái sự thật nghiệt ngã mà hơn nửa thế kỷ qua người ta cố né tránh, bưng bít: "Văn hóa mà không có tự do là văn hóa chết. Văn hóa mà chỉ còn có văn hóa tuyên truyền cũng là văn hóa chết. Càng tăng cường lãnh đạo bao nhiêu, càng bóp chết văn hóa bấy nhiêu, càng hiếm có những giá trị văn hóa và những nhà văn hóa cao đẹp".
Cách chức, khai trừ đảng là chuyện quá dễ hiểu, không thế mới lạ! Thì chẳng phải đã có một ví dụ quá rõ nét khi Đảng và nhà nước Nam Tư đã bỏ tù tác giả của "Giai cấp mới", người đã từng được bầu làm Phỏ Tổng thống Liên bang Nam Tư, "cây lý luận hàng đầu" của Đảng Cộng sản Nam Tư đó sao?
Milovan Dijlas từng tuyên bố: "Tôi, một trí thức đã đi trọn con đường mà một đảng viên cộng sản có thể đi. Từ những chức vụ thấp nhất, từ các tổ chức cơ sở cho đến quốc gia và quốc tế, từ việc thành lập một đảng cộng sản chân chính, chuẩn bị cách mạng, đến việc tham gia xây dựng cái gọi là chế độ xã hội chủ nghĩa. Không ai buộc tôi phải tham gia hay từ bỏ chủ nghĩa cộng sản cả. Tôi đã tự quyết, theo niềm tin của mình, một cách tự do...Càng rời xa chủ nghĩa cộng sản, tôi càng tiến gần đến lý tưởng của chủ nghĩa xã hội dân chủ"...
Tư tưởng bình đẳng và bác ái tồn tại cũng lâu như chính loài người, được chủ nghĩa cộng sản ủng hộ trên lời nói, vốn mang trong mình nó sức hấp dẫn vĩnh hằng đối với những chiến sĩ tranh đấu cho tự do và tiến bộ. Sức hấp dẫn mang tính nhân bản của những lý tưởng đó đã làm cho việc phê phán chúng trở thành không chỉ phản động mà còn trống rỗng và vô nghĩa nữa".
Chính vì thế, người trí thức "đã đi trọn con đường mà một đảng viên cộng sản có thể đi" ấy đã "tập trung mô tả đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản hiến đại...Tất cả chỉ là sản phẩm của thế giới mà tôi đang sống và đang phê phán. Tôi đã thấy và đã trình bày tất cả mà không ngượng ngùng khi thú nhận rằng mình đã là sản phẩm của nó, có lúc đã là người tham gia xây dựng nó và bây giờ là người phê phán nó". ***
Phải chăng đây là sự" phê phán nó" khi "" đã tự tha hóa, tự biến mình thành công cụ trong tay "giai cấp mới" với lợi ích của chính nó, củng cố chế độ toàn trị phản dân chủ, quay lưng lại với nhân dân? Trong những bức thư Trần Độ gửi lãnh đạo của, đặc biệt là bức thư viết vào cuối năm 1974 dưới bút danh Chín Vinh, đã có bóng dáng của sự phê phán nói trên:" nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội và trong tất cả các tổ chức Đảng, trong bộ máy chính quyền...Điều đó ai cũng thấy. Thế nhưng vấn đề là tại sao nó lại chuyển biến chậm chạp. Sự biến chuyển chậm chạp này đã tạo ra một tình trạng giảm sút lòng tin trong cán bộ, đảng viên, trong nhân dân và đáng ngại nhất là trong thanh niên...Những hiện tượng tiêu cực của xã hội ( và trong Đảng, trong chính quyên) làm vẩn đục sự trong sáng và đẹp đẽ của những lý tưởng, đầu độc những lòng say mê hăng hái có tính chất lãng mạn cách mạng, "sống tiêu cực", tạo nên "một thế lực xã hội" bao vây và xua đuổi những tâm hồn trung thực"...mọi người trung thực đều nóng lòng mong đó một cái gì đổi mới, chuyển biến gì mạnh mẽ...".****
Phải chuyển nhanh, phải đổi mới nhanh để khỏi phải chứng kiến những điều đau lòng mà ông nghe được từ người bạn cũ cùng xóm lần ông từ chiến trường về quê sau mười năm xa cách:"cuộc sống ở nhà thật khốn khổ, khốn khổ nhưng không ai dám kêu. Đói đấy phải bảo là no. Có ai hỏi đều nói " cám ơn bác cũng đủ ăn. Nếu kêu đói tức là thành phần xấu. Ông hỏi người bạn cũ: Được mấy cháu rồi?- Nhờ ơn cách mạng được ba đứa- Sao lại nhờ ơn cách mạng?- Ở chiến trường không biết chứ ở nhà cái gì chả nhờ ơn cách mạng. Nuôi được con lợn to, cưới được vợ cho con, nhất nhất là ơn của cách mạng cả"!
Là người lăn lộn ở chiến trường cùng với chiến sĩ, lặng lẽ ghi những hiện thực thất đáng buồn ở hậu phương, câu chữ ngọn bút ghi lại chạy trên trang giây mỏng hoàn toàn là sự thật, tướng Trần Độ day dứt: "Nếu sự thật này ở tiền tuyến người lính biết được hoàn cảnh sống của cha mẹ vợ con thì cấp trên biết nói thế nào với họ"? **** Trung thực với chính mình, trung thực với cuộc sống, trung thực với lịch sử, chính cái đó tạo ra "hiện tượng Trần Độ", ở đây "sức hấp dẫn vĩnh hằng đối với những chiến sĩ tranh đấu cho tự do và tiến bộ. Sức hấp dẫn mang tính nhân bản của những lý tưởng đó" bị chính sự dối trá lọc lừa của "quyền lực bị tha hóa" làm cho băng hoại. Bằng sự trải nghiệm của cả cuộc đời dấn thân trọn vẹn cho lý‎ tưởng nhân văn cao đẹp, Trần Độ tỉnh táo nhận ra sự băng hoại khủng khiếp đó.
Trong Nhật ký viết vào những năm cuối đời mà ông gọi "đây là một tấc lòng “để tặng người đời và cuộc đời”. Đây là những ý nghĩ nung nấu trong những tháng cuối năm Rồng và đầu năm Rắn, và cũng là những ý nghĩ nung nấu trước đó hàng chục năm và sẽ còn nung nấu tiếp đến cả khi sang thế giới bên kia. Đây là nỗi niềm cay đắng của một cuộc cách mạng, và của một kiếp người".
Vấn đề Trần Độ đặt ra đâu chỉ là ý nghĩ của riêng ông. Một xã hội mà công dân không được quyền sống thật, nói thật, nhà văn cũng không được quyền bộc bạch tâm sự riêng tư của mình trên trang giấy là một xã hội không có chân móng. Câu này Nguyễn Khải viết trong "Đi tìm cái tôi đã mât". Thật đau đớn khi "một dân tộc đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ mà mặt người dân nám đen, mắt nhìn ngơ ngác, đi đứng long rom như một kẻ bại trận. Quả thật dân tộc Việt Nam đã thắng lớn trong phong trào chiến tranh giải phóng nhưng lại thua đậm trong công cuộc xây dựng một xã hội tự do và dân chủ. Thoát ách nô lệ của thực dân lại tự nguyện tròng vào cổ cái ách của một học thuyết đã mất hết sức sống. Dân mình sao lại phải chịu một số phận nghiệt ngã đến vậy! Vẫn là Nguyễn Khải dăn vặt trong "Đi tìm cái tôi đã mất".
Mà đâu chỉ nhà văn Nguyễn Khải có nỗi dắn văt đó, nhà thơ Chế Lan Viên trong bài "Trừ Đi" cũng từng nói lên nỗi đau dằng xé tâm can:
Sau này anh đọc thơ tôi nên nhớ
Có  phải tôi viết đâu! Một nửa
Cái cần đưa vào thơ, tôi đã giết rồi
Giết một tiếng đau - giết một tiếng cười
Giết một kỷ niệm - giết một ước mơ - tôi giết
Cái cánh sắp bay - trước khi tôi viết
Tôi giết bão ngoài khơi cho được yên ổn trên bờ
Và giết luôn mặt trời lên trên biển - Giết mưa
Và giết cả cỏ trong mưa luôn thể
Cho nên câu thơ tôi gầy còm như thế
Tôi viết bằng xương thôi, không có thịt của mình
Và thơ này rơi đến tay anh
Anh bảo đấy là tôi.
                             Không phải!
Nhưng cũng chính là tôi - Người có lỗi
Đã phải giết đi bao nhiêu cái
Có khi không có tội như mình  
                                           
Chính vì thế, Trần Độ thẳng thắn chỉ rõ:
 "Tự do là chìa khoá của phát triển.
Tôi nghĩ thế này: nước Việt Nam ta hiện nay, sau bao nhiêu năm đấu tranh và chiến tranh gian khổ, cần phải hoà bình phát triển và cần phải phát triển nhanh, để bù lại những thời gian đã mất, và để theo kịp các nước chung quanh. Đó là mục đích và yêu cầu quan trọng nhất của đất nước. Những cái khác là phụ. Do đó, để phát triển đất nước thì rõ ràng ta phải tìm đường lối nào, học thuyết nào phục vụ được yêu cầu đó. Nếu thật sự coi phát triển đất nước là quan trọng nhất thì Đại đoàn kết dân tộc là quan trọng hơn đấu tranh giai cấp; trí thức quan trọng hơn công nhân và nông dân; phát triển sức sản xuất là quan trọng hơn mọi thứ; để dân làm chủ mọi lĩnh vực quan trọng hơn các trò chuyên chính đàn áp; nghe và thu thập được nhiều ý kiến khác nhau và trái ngược nhau kể cả về đường lối chính sách, quan trọng hơn là bắt mọi người phải tuân theo một quan điểm, một ý kiến".
Cho nên, đúng là không có gì khó hiểu khi người ta phải khai trừ Trần Độ ra khỏi đảng, rốt raó đến độ khi ông mất lại cạn tào ráo máng cấm không được "thương tiếc ông". Đây là kế tục thực hiện một nguyên lý‎ cai trị. Thì chẳng thế sao ? Từ những năm 1955, ngay sau giải phóng Thủ đô, thay vì "Khi đoàn quân tiến về là đêm tan dần" như Văn Cao mơ ước, người ta đã "...đem bục công anh đặt giữa tim người/ Bắt tình cảm ngược xuôi/ theo luật đi đường nhà nước". [Thơ Lê Đạt] Chẳng những thế, "phải tạo ra một tình hình chính trị luôn căng thẳng (một cuộc chiến tranh có thể xảy ra, một cuộc bạo loạn có thể xảy ra) để buộc các công dân phải sống trong những quy chế nghiêm ngặt của thời chiến, ở các chế độ toàn trị chỉ có hai cơ quan mà quyền uy bao trùm cả xã hội. Đó là cơ quan tư tưởng, tuyên truyền và cơ quan công an. Một để chặn, một để chống.
Còn khi đã có chuyện bất thường xảy ra thì chỉ có một biện pháp: đàn áp, bắt giữ, lập toà án xét xử những kẻ cầm đầu. Cách giải quyết vừa nhanh gọn lại mau ổn định, không dây dưa, phiền toái vì có quá nhiều luật lệ, qua nhiều lý lẽ như ở các nước tư bản. Những rối loạn vặt vãnh thật ra là nước là không khí của các nhà cầm quyền độc tài.
Họ đâu có sợ loạn. Họ còn bày ra những cuộc chiến cung đình như ở Liên Xô và các nước Đông Âu, hay một cuộc chiến giữa nhân dân với nhau như đã làm ở Trung Quốc. Không có mùi vị của thuốc súng, của máu người và những tiếng la hét cuồng nộ của đám đông thì người cầm quyền biết thở bằng gì"...Những câu này là của tác giả "Đi tìm cái tôi đã mất".
Chính vì thế mà phải " Nói dối lem lém, nói dối lì lợm, nói không biết xấu hổ, không biết run sợ vì người nghe không có thói quen hỏi lại, không có thói quen lưu giữ các lời giải thích và lời hứa để kiểm tra. Hoặc giả hỏi lại và kiểm tra là không được phép, là tối kỵ, dễ gặp tai hoạ nên không hỏi gì cũng là một phép giữ mình. Người nói nói trong cái trống không, người nghe tuy có mặt đấy nhưng cũng chỉ nghe có những tiếng vang của cái trống không. Nói để giao tiếp đã trở thành nói để không giao tiếp gì hết, nói để mà nói, chả lẽ làm người lại không nói .
 Thật ra nói thế mà vẫn hiểu nhau cả. Người cầm quyền thì biết là nhân dân đang rất bất bình về nhiều chuyện, nhân dân thì biết người cầm quyền đang nói dối, nhìn vào thực tiễn là biết ngay họ đang nói dối. Nhưng hãy mặc họ với những lời lẽ dối trá của họ, còn mình là dân chả nên hỏi lại nói thế là thật hay không thật...
Mọi cái khác với chính thống đều bị lên án, mọi cái giống nhau đều được tuyên dương. Vì những cái khác nhau rất khó tạo ra sự nhất trí, còn những cái giống nhau sẽ dễ nghe theo, làm theo mọi mệnh lệnh.
Nhà văn Nguyễn Khải đau đớn đặt ra một câu hỏi: "một môi trường xã hội ngột ngạt vì cái bóng quyền lực phủ lên tất cả, quyết định tất cả thì số phận những cá nhân sẽ ra sao? Vị tướng Trần Độ trả lời câu hỏi đó trong những trang Nhật ký viết ở chặng sắp kết thúc một cuộc đời dấn thân trọn vẹn cho lý tưởng cao cả từ thuở đầu xanh cho đến lúc tóc bạc để đúc kết vào chỉ mỗi một câu thôi:
" Đây là nỗi niềm cay đắng của một cuộc cách mạng, và của một kiếp người".
Tôi mượn câu này làm một nén hương lòng thắp trước di ảnh của ông nhân ngày Giỗ của người mà tôi kính mến. Tôi là kẻ hậu sinh, quen biết ông quá muộn, được ông xem là bạn vong niên đã là một niềm cảm kích lớn, xin chỉ gợi lại một kỷ niệm nhỏ với ông. Hôm ông đến chơi, ông trách tôi: "anh tệ thật, không thèm gửi sách cho tôi", vừa nói ông vừa đến bên giá sách và chỉ vào cuốn "Khảo sát xã hội học về phân tầng xã hội" đã in cách đó 5 năm. Tôi choáng người, vội xin lỗi và thanh mình: "Chết tôi rồi, tôi đã gửi biếu anh ngay sau khi nhận được từ nhà xuất bản về. Tôi còn nhớ rõ, cuốn đánh số 4". "Sao? Đánh số? lại số 4", ông ngạc nhiên hỏi.
"Vâng, chính vì thế mà tôi nhớ rõ mà. Duyên do là cuốn sách ấy chỉ là toàn bộ bản báo cáo về cuộc khảo sát xã hội học ở Thái Bình mà Anh đã hỏi chuyện tôi khi gặp anh tại nhà khách tỉnh ủy sau đó một năm nay hoàn chỉnh lại về văn phong, câu chữ để đưa in. Tuy đã được Hội đồng nghiệm thu cấp Nhà nước chấp thuận, nhưng khi đưa in thì Nhà xuất bản đòi bỏ một số đoạn. Tôi từ chối. Giằng co mãi, cuối cùng anh Nguyễn Duy Quý xử lý một cách rất cao tay: in và lưu hành nội bộ. Tôi đồng ý ngay. Chỉ cần in, còn lưu hành nội bộ thì càng tốt, đó là một cách quảng cáo cho sách. NXB chơi chua: chỉ in 100 cuốn và đánh số từ 1 đến 100, gửi cho ai thì phải ghi tên người đó và số của cuốn sách (!). Cuốn này, tôi gửi cho anh HTK, sau khi anh ấy mất, tình cờ đến chơi nhà, thấy cuốn sách nằm lăn lóc trong đống sách cũ, tôi xin lại đem về đặt vào đây, cuốn sách mà anh đang cầm trong tay đó, vì còn cuốn cuối cùng trên giá sách này thì một người bạn thân cầm về rồi "quên" chưa trả".
Ông trầm ngâm đưa trả cuốn sách không nói gì. Một lần khác, cùng ông lên chơi nhà Thu Bồn ở "Suối Lồ Ồ", đến nơi thì đã tối tròi, khi bước xuống xe thấy ánh đèn flash lóe sáng. Ông cầm tay tôi nói to với các bạn cùng xuống xe: "đứng lại để người ta chụp ảnh đã, chụp xong rồi hãy vào nhà", mọi người cười ồ. Lúc ăn cơm, tôi nhắc với ông để in lỗi vì chưa đi photo cuốn sách để gửi đến ông nhưng nói thêm là sách lạc hậu rồi, anh đứng mất thì giờ đọc làm gì. Ông cười và yêu cầu gửi gấp, câu này ông nói hơi to. Thế là, sáng hôm sau, một người học trò cũ của tôi, nay là "nhà báo", người ngồi cạnh tôi tối qua ở nhà Thu Bồn và bả lả vui vẻ: "em tình cờ thấy thầy và theo vào đây, vui quá, thầy cho phép em ngồi chứ", bỗng bất ngờ đến chơi. Thầy trò gặp nhau vui vẻ, anh ấy xuống bếp mươn mấy cái đĩa, lôi từ trong túi giấy ra mấy thứ bánh lá "em biết thầy vẫn thích loại bánh này nên mang đến thấy dùng bữa sáng". Vừa ăn bánh, vừa hàn huyên bao chuyện cũ, anh học trò hạ giọng, "thầy ơi, cuốn sách thầy đinh photo biếu bác Độ, thấy có thể cho em xem được không ạ".Biết việc anh ấy phải làm và mục đích của bữa ăn sáng, tôi kéo anh ta đến giá sách, lôi cuốn sách ra đưa cho anh và nói: "Mình nhờ cậu đi photo giúp mình, quả thật mình cũng đang định làm chuyện này nhưng bận quá. Cậu photo cho mình 2 cuốn, một mình giữ lại, một đưa biếu ông Độ, còn lại cậu muốn photo ấy bản đủ cho công việc của cậu thì tùy"! Người ta "chăm sóc" ông Độ thật chu đáo.
Nhưng rồi bộ sách"Trần Độ. Tác Phẩm tập 1, 2,3" do NXB Hội Nhà Văn in rất đẹp cũng đã ra mắt bạn đọc. Dành thì giờ đọc lướt qua mấy nghìn trang sách, nhưng những lời, những đoạn tôi trích ra trong bài viết này thì không có ở trong đó.Thôi thì chăc là ai đó đang sực nghĩ đến những bước đi của lịch sử và sự sòng phẳng của lịch sử. Ngạn ngữ phương tây có câu: “Không có vĩ nhân dưới con mắt của kẻ hầu phòng". Người hầu phòng mẫn cán và thông thạo nghiệp vụ chỉ cần đánh giá khách hàng của anh ta thông qua đẳng cấp căn phòng mà khách thuê và số tiến bo anh ta sẽ nhận được từ hầu bao của vị khách. 
Sực nhớ đến "Lời" trong "Bơ vơ Đông đảo" của Việt Phương:
Những người lính trẻ ngã xuống ở Lạng Sơn
                   không liên quan gì đến ngày hôm nay nữa
Chỉ còn lo toan những ghế nhỏ lên ghế to
                    xe cúp lên ô tô chung cư lên biệt thự
                              trong cuộc đòi bơ sữa mà thôi.
 
Vậy thì người lính Trần Độ, tướng Trần Độ, nhà văn hóa Trần Độ liệu có "bơ vơ" giữa cuộc đời "đông đảo" này không nhỉ?
Tôi tìm thấy trong tâp thơ "Nắng" của Việt Phương với đề từ "đời đang đón đợi để đong đầy" vừa nhận được hôm qua hai câu:
Mong sao được là người mê muội
Lặn xuống sâu đắm đuối gặp chân trời
                                                                                                     
 Sài Gòn 8.8.2013
Nguồn : GS .TƯƠNG LAI 
_______________________
* Roger Pearson, (2005), Voltaire Almighty, London: Bloombury Publishing. Tr. 66 – 67.
** Maxim Gorky Những ý tưởng không hợp thời đăng trên nhật báo Novaja Žizn (Đời Mới) trong những năm 1917-1918.  NXB Surkamptaschenbuch của Đức ấn hành năm 1974.
     ***Những đoạn có *** đều trích trong "Giai Cấp Mới" của Milovan Dijlas  
     **** Những đoạn có **** đều trích trong "Chuyện Tướng Độ" của Vũ Bá