Chào mừng bạn đến với blog ĐỌC & SUY NGẪM .

30 thg 7, 2013

Quan trên thề nuốt…kê cân

Anh Đoàn Văn Vươn.
Anh Đoàn Văn Vươn.
Hôm nay, 29/7/2013, phiên tòa phúc thẩm liên quan đến gia đình anh Đoàn Văn Vươn diễn ra tại trụ sở tòa án nhân dân TP. Hải Phòng. Theo dự kiến, phiên phúc thẩm sẽ diễn ra trong 3 ngày, từ 29 đến 31/7/2013.
Sáu người trong gia đình anh Vươn cùng bị truy tố tội danh “Giết người” và “chống người thi hành công vụ” sau vụ nổ súng chống cướp đất chấn động dư luận ngày 5 tháng 1 năm 2012.

Hiệu Minh Blog từng bình luận rằng, phiên tòa này giống như món “kê cân” của Tào Tháo năm xưa. Kê cân” nghĩa là gân gà, ăn không có vị gì, mà bỏ thì tiếc. Tình thế vụ án này giống như “kê cân” của Tào Tháo, tiến thoái lưỡng nan.
Không phạt nặng mấy anh em Đoàn Văn Vươn bắn súng hoa cải vào chính quyền thì sợ dân nơi khác noi theo làm loạn. Tha bổng thì xấu hổ như Tào Tháo lui quân. Đã bắt thì nhất định phải có tội.
Phạt nặng cũng không được, vì chính quyền huyện Tiên Lãng cưỡng chế sai luật, Sai của chính quyền địa phương kéo theo việc làm sai của anh em Đoàn Văn Vươn
Món kê cân đã được quan trên cố nuốt. Trong phiên tòa sơ thẩm, tòa đã tuyên 5 năm tù giam đối với anh em Đoàn Văn Vươn, Đoàn Văn Quý. Một số người trong gia đình cũng bị án từ 3 năm đến tù treo.
Xử án như hề ngay sau đó liên quan đến  5 cựu quan chức  cấp huyện/xã. Tội danh bao gồm “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” và “hủy hoại tài sản”.
Ai cũng biết, việc cưỡng chế ở Tiên Lãng được chính Thủ tướng Dũng thừa nhận “Chính quyền sai hoàn toàn” nhưng trong cả hai phiên tòa đều không nhắc đến chính quyền sai ở chỗ nào, vì sao lại có cuộc cưỡng chế này.
Hiệu Minh Blog gọi đây là “sai không chính chủ”, vì chẳng có ai trong chính quyền sai. Ông Khanh là người chống lại duy nhất thì ngồi tù. Đại tá Ca, người chỉ huy “trận đánh ghi thành sách” trong vụ chiếm đất ở Tiên Lãng động trời, nay vừa lên lon thiếu tướng.
Món “kê cân” nay lại đưa ra nấu cháo lại. Tuy nhiên, lẽ phải đang thuộc về kẻ mạnh. Khó mà có tin gì vui từ trụ sở tòa án Tp Hải Phòng.
Lâu lâu rồi, Bộ GTVT đưa ra Nghị định 71, ôtô không sang tên đổi chủ sẽ bị phạt từ 6-10 triệu đồng; riêng môtô, xe máy bị phạt từ 800.000 đến 1.200.000 đồng. Nghe nói, nghị định “phạt không chính chủ” này đang bị phế bỏ vì không thực hiện nổi.

Thăm gia đình anh Vươn. Ảnh: Trần Thanh Vân
Còm sỹ HM Blog thăm gia đình anh Đoàn Văn Vươn. Ảnh: Trần Thanh Vân

Khi người ta cố tình không muốn tìm đến tận cùng của sự thật, ai là thủ phạm chính trong vụ án động trời ở Tiên Lãng, thì việc kẻ yếu thế, dù đúng, đi tù thay cho kẻ mạnh, dù sai lè, vẫn thăng quan, tiến chức là chuyện bình thường ở một xã hội mà tòa án chưa phải là chuẩn mực công minh.
Một khi hành pháp không độc lập và giới luật sư chưa có tiếng nói thật sự của mình, thì phiên tòa phúc thẩm Đoàn Văn Vươn sẽ tiếp tục xử theo chiều hướng “không chính chủ”,  lần này cũng vậy, các vị quan trên thà nuốt  chửng món “kê cân” còn hơn nhận lỗi.

Nguồn : Hiệu Minh

Vụ án Tiên Lãng: Sai không…chính chủ

Lâu lâu rồi, Bộ GTVT đưa ra Nghị định 71, ôtô không sang tên đổi chủ sẽ bị phạt từ 6-10 triệu đồng; riêng môtô, xe máy bị phạt từ 800.000 đến 1.200.000 đồng.
Như để cạnh tranh, vừa qua, Bộ Tư pháp đang lấy ý kiến – sẽ phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 200.000 tới 1.000.000 đồng đối với “vợ/chồng không chính chủ”.

Xe “chính chủ” nghĩa là xe phải đăng ký đúng tên người đang dùng xe đó. Vợ chồng “chính chủ” là hai người có đăng ký kết hôn và được pháp luật thừa nhận.
Chứng minh “chính chủ” nghĩa là phải có đăng ký trương ra.
Những nghị định kiểu này gây cười trong dư luận về quan trí “salon máy lạnh”.
Nhưng sai không…”chính chủ” mới thực sự là đáng khóc vì nền luật pháp nước mình “xử ngọn không xử gốc”.
Chả là mới đây, trong phiên tòa xét xử vụ việc ở Tiên Lãng (Hải Phòng), anh Đoàn Văn Vươn và vài người khác bị kết tội “giết người” và bị phạt tù 5 năm.
Mấy hôm nay, tòa tiếp tục luận tội 5 cựu quan chức cấp huyện/xã. Tội danh bao gồm “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” và “hủy hoại tài sản”.
Cho đến thời điểm hiện tại, các cựu quan chức trên đều phủ nhận cáo buộc đã trực tiếp chỉ đạo phá nhà anh Đoàn Văn Vươn.
Thật không công bằng khi mấy anh em họ Đoàn phải ngồi tù vì chống lại sự sai trái của chính quyền.
Và cấp dưới như ông Nguyễn Văn Khanh (PCT huyện Tiên Lãng) phải chỉ đạo những quyết định cưỡng chế mà ông biết chắc là sai, nhưng bởi lãnh đạo tập thể nên ông Khanh phải giơ đầu ra chịu.
Ai cũng biết, việc cưỡng chế ở Tiên Lãng được chính Thủ tướng Dũng thừa nhận “Chính quyền sai hoàn toàn” nhưng trong cả hai phiên tòa đều không nhắc đến chính quyền sai ở chỗ nào, vì sao lại có cuộc cưỡng chế này.
Những gì đang xảy tại tòa án ở Hải Phòng người ta không có ý định xử ai cấp cao nhất đã chỉ đạo sai.
Một khi không thể hay không dám truy ra nguồn gốc của sự sai trái thì khó có thể nói về vụ xử án một cách công bằng.
Ở Tiên Lãng, dường như việc sai này không…”chính chủ”, tòa chẳng biết xử phạt ai.
Việc lôi những người làm sai không có…”đăng ký” như anh Vươn, anh Quí, hay vài cựu quan chức cấp xã, cấp huyện như ông Hiền, ông Khanh, ông Hoa… và bắt họ đi tù thay, chả có gì lạ.


Nguồn : HM. 8-4-2013

23 thg 7, 2013

THOÁT TRUNG LUẬN



Nhìn lại lịch sử cận đại của thế giới và Việt Nam, cũng như khu vực Đông Nam châu Á, địa chính trị, và cơ hội chúng ta thấy gì? Hãy điểm nó lại một cách khách quan để nhìn nước Việt đến vài thế kỷ tới xem sao? Đó là mục đích của bái viết này.

Địa chính trị và lịch sử

Các quốc gia Đông Nam Á khác, như Nam Dương(Indonesia) và Mã Lai Á nhờ địa lý tách ra khỏi bán đảo Đông Dương, nên bị thực dân Âu châu nhảy vào sớm hơn, từ đầu thế kỷ XVI. Cụ thể là Mã Lai Á thì Hà Lan bước chân vào năm 1511. Nam Dương cũng được Bồ Đào Nha đặt chân đầu tiên vào năm 1512. 

Miến Điện, một quốc gia có đường biên giới với Trung Hoa, nhưng gần với Ấn Độ và tiếp giáp giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương cũng phải đến đầu thế kỷ XIX mới bị người Anh xâm chiếm ra khỏi sự quan tâm của Trung Hoa.

Ngay cả Ấn Độ có cùng đường biên giới hiểm trở với Trung Hoa, mà Ấn Độ là một nước lớn, nhưng cũng mãi đến khi Trung Hoa suy yếu vào cuối đời nhà Thanh thì các cường quốc châu Âu gồm: Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh và Pháp mới có thể xâu xé Ấn Độ vào cuối thế kỷ XVIII.

Cũng có địa chính trị cùng đường biên giới với Trung Hoa là bán đảo Đông Dương, nên cũng chịu dưới sự quan tâm đặc biệt của Trung Hoa từ ngàn năm trước.

Lịch sử Việt Nam đúng chỉ có khoảng 2.600 trăm năm, trong đó hơn ngàn năm bị đô hộ giặc Trung Hoa. Trong những khoảng trống không bị đô hộ đó, Việt Nam chưa bao giờ độc lập với Trung Hoa, mà phải quan hệ kiểu thiên triều và chư hầu, theo dạng triều cống và lãnh ấn chỉ chủ dụ từ Trung Hoa. 

Chỉ có một giai đoạn duy nhất từ giữa thế kỷ thứ XIX, khi cuối triều nhà Thanh suy yếu, Trung Hoa bị chia năm xẻ bảy bỡi các cường quốc châu Âu: Hà Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Anh Quốc và kể cả Nhật Bản, lúc ấy Việt Nam mới bị sự dòm ngó của Pháp và xâm lược Đông Dương.

Khi Trung Hoa có nền Cộng Hòa xuất hiện do Tôn Trung Sơn lãnh đạo vào năm 1912, cũng là lúc suy thoái kinh tế toàn cầu 1929 - 1933 ập đến. Ba thập kỷ người Trung Hoa có nhiều nội loạn, vả lại chịu dưới sự xâm lược của người Nhật. Nên Trung Hoa không đủ sức dòm ngó đến Đông Dương và Miến Điện.

Sau chiến tranh thế giới II, người Pháp thất trận, Trung Hoa thành lập 1949, cũng là lúc họ bắt đầu quan tâm đến Đông Dương. Dù họ còn rất yếu do nhiều lý do khách quan và chủ quan của cách cai trị của Mao, nhưng Trung Hoa đủ mạnh để tranh đoạt bá vương và cùng với Hoa Kỳ để đi đến Thông Cáo Thượng Hải 1972 ăn chia Đông Dương và khu vực, cũng như toàn cầu.

Sau 30/4/1975, có một giai đoạn ngắn đến 1990, Việt Nam không bang giao với Trung Hoa nhờ vào sức mạnh của Liên Xô. Nhưng khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, thì Hội Nghị Thành Đô lại làm cho Việt Nam trở lại thời kỳ bằng mặt, nhưng không bằng lòng với Trung Hoa. Hiện nay thì ai cũng thấy rõ ràng chính sách ngoại giao đa phương - dĩ bất biến ứng vạn biến của Tôn Tử - đang là cách mà nước Việt đang đương đầu với Trung Hoa.

Cơ hội

Qua những điều đã điểm ra ở trên, cho ta thấy các nước nhỏ quanh Trung Hoa có cùng biên giới rộng lớn với họ đều được họ xem là vùng đệm và chư hầu trong quan hệ ngoại giao.

Điều đáng lo lắng nhất với các quốc gia cùng biên giới với Trung Hoa là, không bao giờ Trung Hoa muốn các quốc gia này hùng mạnh để dễ bề thao túng và cai trị. Hãy điểm lại mà xem, Việt, Miên, Lào, Bắc Hàn, Mông Cổ, Bắc Hàn, Hồi Quốc Pakistan. 

Và kể cả Miến Điện, một quốc gia hùng cường vào 2 thập niên 1960s và 1970s nhưng cũng bị Trung Hoa chi phối làm cho kiệt quệ, và chỉ mới đổi mới xoay chuyển chính trị bằng cách chuyển dời, xây dựng thủ đô mới để tránh những bí mật quốc gia bị tiết lộ với Trung Hoa mới từ chối được cái dự án 2,5 tỷ đô la làm đường ống dẫn dầu từ Yangon đến Vân Nam, và thay đổi thể chế chính trị triệt để tách khỏi Trung Hoa như hôm nay. Một sự thay đổi Miến Điện mà thế giới kinh ngạc, nhưng là bài học Thoát Trung Luận cho Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng.

Báo cáo kinh tế thế giới của Ngân Hàng Thế Giới vào ngày 13/6/2013 cho thấy nợ tư trong nước của Trung Hoa cao nhất thế giới, lên đến 160% GDP. Việt Nam cũng không khá hơn với 110% GDP của nợ tư trong nước. Nhiều chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước đang dự đoán một Trung Hoa hạ cánh nặng nề, và một tia hy vọng sáng sủa cho các quốc gia quanh khu vực có thể làm cuộc Thoát Trung Luận với Trung Hoa mà, lâu nay theo kiểu ngoại giao họ luôn tự cho mình là thiên triều.

Sự suy yếu của Trung Hoa trong những năm tới là có thực, không mơ hồ, do nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa mang màu sắc Trung Hoa gây ra không chỉ ở Trung Hoa mà ngay cả ở Việt Nam sau khi sao chép 23 năm qua. Dù khó khăn, nhưng đó là cơ hội cho Việt Nam rất lớn để làm cuộc Thoát Trung Luận.

Nhìn lại lịch sử cận đại của Việt Nam và Trung Hoa, thời nhà Nguyễn kéo dài 143 năm - từ 1802 đến 1945 - đất nước Việt hùng cường nhất mọi thời đại. Bở cõi được mở rộng đến Mũi Cà Mau, Hoàng Sa Trường Sa vững vàng không sợ họa xâm lăng, mà còn dẹp được khu vực phía Nam của người Hoa Minh Hương trấn giữ. Chúng ta không phải lệ thuộc Trung Hoa cũng một phần lớn là khi đó nhà Thanh suy tàn, và nhà Nguyễn của ta có chiến lược ngoại giao khôn khéo với cả các lâng bang và cả với thực dân châu Âu. Điều này lịch sử cần nhìn nhận trung thực và công bằng với nhà Nguyễn. Như vậy, chúng ta đã Thoát Trung rồi, sau khi Quang Trung thay đổi chữ viết từ Hán sang Nôm, thì Nhà Nguyễn thoát theo. Sao giờ này ta lại phải chịu một lần nhục cho tổ quốc và dân tộc?

Bài học và phương án Thoát Trung Luận

Từ thế kỷ XIX ở Nhật Bản, có ông thầy giáo Fukuzawa Yukichi đã viết và đưa ra chiến lược Thoát Á Luận. Các vị minh quân của nước Nhật đã đi theo và họ đã thành công như hôm nay, một phần nhờ địa chính trị. Nhưng có một quốc gia khác có địa chính trị giống Việt Nam - Miến Điện - họ đã và đang làm cuộc Thoát Trung Luận đến nay rất tốt.

Có thông tin cho rằng sở dĩ Miến Điện thoát được Trung Hoa là nhờ họ dời trung tâm hành chính quốc gia từ thủ đô cũ là thành phố Yangon đến Naypyidaw là do những trung tâm hành chính quốc gia Miến Điện dưới thời Thein Shwe là do Trung Hoa viện trợ và xây cất. Họ phải dời đô vào nơi an toàn, để bảo mật quốc gia, sau đó mới tính chuyện chuyển đổi thể chế chính trị, thì mới an toàn cho đất nước họ và Thoát Trung Luận mới thành công. 

Liệu rằng, những cơ sở hành chính quốc gia Việt được Trung Hoa giúp xây dựng thời chiến tranh có đảm bảo bí mật quốc gia?

Năm 2010, ở Việt Nam rộ lên việc di dời trung tâm hành chính quốc gia ra khỏi Ba Đình, nhưng một số thành phần ưu tú và trí thức Việt Nam lại cho là sai lầm. Rồi mọi chuyện rơi vào quên lãng.

Hôm nay, tình hình nước Việt như ngàn cân treo sợi tóc - kinh tế xem như đang trên đà sụp đổ hoàn toàn, chính trị rối ren vì nạn bè phái tranh ngôi đoạt vị - mà chuyện quốc sự quan trọng nhất là làm sao Thoát Trung Luận, thì đất nước mới mong thái bình, dân tộc mới mong thịnh vượng và độc lập tự chủ.

Trong lúc kinh tế khó khăn, chuyện xây dựng trung tâm hành chính quốc gia mới là điều nên làm, để vực nền kinh tế và tạo công ăn việc làm cho xã hội. Một công đôi việc vừa vực nền kinh tế quốc gia, vừa giúp cho tiến trình Thoát Trung Luận đẹp cả đôi bề.

Lý thuyết nhị nguyên luận trong triết học đã được người Mỹ áp dụng trong việc tạo ra hình thái chính trị xã hội cho một hời kỳ mới mà họ gọi là trật tự mới cho những thời đại tiếp theo rất thành công. Âm dương, nước lửa, trời đất, phá và xây, v.v... Cộng hòa và Dân chủ là 2 trường phái để xây dựng Hoa Kỳ ngày nay theo Nhị Nguyên Luận rất triết học và rất thành công. 

Người dân Việt hiếu hòa, không ai muốn và cũng chưa có lực lượng nào đủ sức để giành quyền lãnh đạo với đảng cầm quyền hiện nay. Đừng nên xem dân mình là thù địch vì quyền lợi cá nhân. Đã đến lúc cần phải tách đôi đảng cộng sản ra làm 2 đảng và cần một hành động cụ thể như Miến Điện để làm cuộc Thoát Trung Luận hoàn hảo, khi cơ hội bắt đầu hé mở ở chân trời - đó là một Trung Hoa đang và sẽ suy yếu. Thiên thời, nhân hòa lòng dân muốn và chỉ còn việc tạo ra địa lợi để biết chớp lấy thời cơ. Nếu không, 300 năm hay 1.000 năm nữa quan hệ Trung - Việt vẫn theo kiểu mà ngàn năm trước không thay đổi.



Câu chuyện Thoát Trung Luận là câu chuyện lớn cho cả tổ quốc và dân tộc. Nó không chỉ có liên quan đến cơ hội, thời thế, mà còn liên quan đến cả tư duy và hành động của lãnh đạo, nhân dân cần phải thoát ra khỏi cái quán tính tư duy bao đời hằn sâu trong tâm khảm.

Trong phần Thoát Trung Luận mà tôi đã viết hôm 28/6/2013 chỉ là nói đến thời cơ - thời thế và cơ hội - sau khi điểm qua lịch sử, địa chính trị của khu vực và bài học của Nhật Bản cách đây 2 thế kỷ, và bài học của Miến Điện hôm nay. Trong bài viết này tôi xin bàn đến tư duy của lãnh đạo và dân tộc. Vì cuộc cách mạng tư tưởng luôn phải đi trước cách mạng xã hội một bước, tư tưởng mà không thông thì đừng hòng làm được bất cứ cái gì.

Chúng ta bắt đầu từ văn hóa

Văn hóa là nguồn cội của tư duy. Như tôi đã viết, văn hóa duy tình kiểu làng xã, tiểu nông của Việt Nam chỉ quanh quẩn bỡi cái ăn chắc mặc bền, mà không hoặc khó dám nghĩ đến chuyện thay đổi cái cũ, để tìm cái mới tốt đẹp hơn. Chỉ khi nào vận đến cùng thì mới dám nghĩ đến chuyện phải tự cứu lấy mình, bằng cách thay đổi lề lối làm việc và chọn phương cách mới.

Chính cái quan điểm văn hóa duy tình, làng xã bám vào gốc rạ để sống, hòng tìm một sự bền lâu này nó đã là một quán tính tư duy trong mỗi con người Việt Nam, từ lãnh đạo đến cùng đinh không dám có sự thay đổi và bức phá, ù lì trong cái túng cùng cả nghèo hèn và nhược tiểu.

Điểm lại lịch sử, hầu hết các cuộc cách mạng của dân ta cũng chỉ xảy ra khi và chỉ khi cái chén cơm của mỗi người đều bị mất trắng, đời sống của toàn dân bị cơ cực đến tận cùng. Thời phong kiến các đời cũng vậy, mà thời Pháp thuộc cũng thế. Ba mươi tám năm qua, sau thống nhất đất nước cũng không hơn, chỉ sau khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, không còn chỗ để ăn xin, nên đảng cầm quyền mới nghĩ và hành động để cỡi trói cứu lấy quyền lợi bền lâu của mình.

Nhưng sau khi cỡi trói thì cái tư duy làm nô lệ và cầu viện ngoại bang vẫn còn khắc vào tâm khảm, nên mới có cái Hội nghị Thành Đô 1990, để đảng cầm quyền tìm một chỗ nương náu yên thân. Thời nội chiến từ 1954 đến 1975 cũng vậy, cả 2 miền Nam Bắc, các lãnh đạo Việt cũng kẻ Bắc tìm sự nô dịch với Liên Xô và Trung Hoa, người Nam bám vào sự viện trợ của Hoa Kỳ để tranh bá. Cuối cùng nhân dân là người thua cuộc. Để hôm nay, chúng ta lại phải hầu hạ và tôn thờ Trung Hoa một cách mù quáng.

Cho nên, cái cần kiếp ngay từ bây giờ là, phải đào tạo một thế hệ có tư duy thoát ra khỏi cái văn hóa bần nông, làng xã và duy tình này. Cần duy lý, tự lực cảnh sinh để tự cường đứng dậy đi thẳng lưng như người ở đồng bằng, chứ không đi lom khom như ngàn năm nay của người sơn cước.

Rất dễ để kiếm tìm những bài viết của các học giả, hay trí thức đến sinh viên nhìn sự việc cảm tính hơn là duy lý. Và dân gian nước mình cũng có những câu ca dao lột tả rất rõ về điều này - Thương nhau cũ ấu cũng tròn/Ghét nhau trái bồ hòn cũng méo.

Vấn đề quán tính tư duy

Hơn một năm trước, tôi viết bài quán tính tư duy là cái làm cho đám đông vô thức bị tầng lớp tinh hoa xỏ mũi kéo lê dân tộc đi từ khổ nạn này đến tai ách khác. 

Nhưng nếu nhìn lại, thì cái quán tính tư duy cũng làm cho tầng lớp tinh hoa của đất nước Việt Nam bao đời nay vẫn còn trong ao tù nước đọng.

Ngàn năm trước dưới ách đô hộ của Trung Hoa, lãnh đạo bao triều vua vẫn chịu thần phục, triều cống phương Bắc dù dân khí có hùng cường đánh đuổi được giặc phương Bắc ra khỏi bờ cõi.

Điểm lại lịch sử công tâm, chỉ có triều Nhà Nguyễn gần đây mới có chuyện độc lập tự chủ, mở mang bờ cõi đến Cà Mau, Trường Sa, Hoàng Sa và biển Đông thuộc về ta mà bao triều đại trước đó, và cả ngay bây giờ cũng không thể sánh bằng. Đó cũng nhờ một phần Nhà Thanh bên Trung Hoa suy tàn, và Nhà Nguyễn nước ta có tư duy thoát Trung Hoa.

Sau Nhà Nguyễn suy tàn, nước ta rơi vào ách thực dân Pháp, những hòa ước Pháp Thanh cũng phải lấy bản gốc triều Nguyễn để ký kết về biên giới, biển đảo. Nhưng các tinh hoa làm cách mạng thoát Pháp vẫn cứ mang tư duy cậy nhờ ngoại bang, để đẩy dân tộc vào máu lửa chiến tranh, và nhân dân vẫn là người thua cuộc.

Bây giờ cũng thế, sau hội nghị Thành Đô 1990 tạm giúp ổn định không chiến tranh được 23 năm nay. Nhưng gần đây nguy cơ này lại đến. Đầu tháng 6/2013 này lại có cái ký kết vịnh Bắc Bộ với Trung Hoa, nhưng chữ ký chưa ráo mực thì tàu hải giám Trung Hoa đã tấn công ngư dân ta ngay trên vịnh Bắc Bộ. Câu chuyện chủ tịch nước phải đi thăm Hoa Kỳ vội vả vào 25/7/2013 này nói lên tất cả những thất bại về quan hệ kiểu nương nhờ ngoại bang trong cái tư duy của lãnh đạo của ta hiện nay. Trong khi đó, dân khí mới là rường cột của quốc gia, thì chính quyền lại thẳng tay đàn áp. Một tư duy có bản chất nô lệ, có quán tính từ ngàn xưa vẫn còn mãi đến hôm nay.

Nếu còn tư duy nô lệ như thế thì ngàn năm sau không hy vọng gì đất nước ta có thể tự lực, tự cường, đứng thẳng người như Nhật, Hàn hay một số quốc gia trong khu vực kể cả Miến Điện và Cambodia.

Chính trị là một nghệ thuật của sự có thể - Otto Von Bismarck - vấn đề là cần nâng nghệ thuật này bằng tư duy tới hạn từ những vấn đề mà tôi đã lược ra ở trên.

Ngay cả nước Pháp có cuộc phá ngục Bastille vào ngày hôm qua cách đây 224 năm, mà mọi người cứ tưởng là cuộc cách mạng dân chủ tư sản dẫn dắt nhân loại từ bỏ phong kiến đến nền cộng hòa, thì cũng phải diễn ra chậm hơn cuộc cách mạng Trà Boston của Hoa Kỳ đến 16 năm. Nhưng Nã Phá Luân đã đưa nước Pháp trở về thời đại phong kiến một lần nữa, sau thế chiến thứ hai nước Pháp mới có nền cộng hòa thực sự. Trong khi đó, Hoa Kỳ đi một mạch trước cả châu Âu và Pháp để đến cường quốc số một toàn cầu là chuyện đáng để kính trọng hơn tất cả.

Nói lên điều này để thấy việc thoát ra khỏi cái quán tính tư duy không dễ ngay ở các quốc gia tiên tiến phương Tây. Nó càng khó hơn với Việt Nam, nếu hệ thống tuyên truyền của đảng cầm quyền mãi còn tư duy nô dịch.

Muốn cỡi trói văn hóa nô dịch và tư duy bần nông làng xã hành động thế nào thì lại liên quan đến nghệ thuật của sự có thể. Hẹn ở phần ba cho đề tài Thoát Trung Luận này. Chúc dân tộc này một tương lai tốt đẹp.


Tại sao gần đây báo chí rộ lên tình hình thanh niên trốn nghĩa vụ quân sự? Dân thì mất lòng tin đảng cầm quyền và nhà nước của đảng lập ra vì tham nhũng và tha hóa. Thế thì sức mạnh của một đất nước còn gì? Phải làm gì về chính trị để giải quyết sức mạnh toàn dân, vực đất nước và dân tộc qua cơn tai kiếp vừa khủng hoảng chính trị, vừa khủng hoảng kinh tế này?

Tại sao cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á cuối thập niên 1990s của thế kỷ trước, chính phủ Thái lan và Hàn Quốc kêu gọi nhân dân giúp sức, thì người dân sẵn sàng gom vàng, tiền tiết kiệm của mình để cứu nền kinh tế và cứu đất nước của họ ra suy thoái? Trong khi nước ta đang lúc suy thoái cùng cực về cả chính trị lẫn kinh tế thì người dân thờ ơ, và thanh niên quay mặt với tổ quốc và dân tộc?

Hầu hết các tổ chức nhà nước trên thế giới đều thua lỗ, và ăn bám vào tiền đóng thuế của dân, ngay cả ở các nước tiên tiến, và đây là nơi để nạn tham nhũng và tha hóa hoành hành. Cho nên, ở bất kỳ quốc gia nào dù trong sạch đến số 1 toàn cầu thì nạn tham nhũng vẫn sống và tồn tại. Ở một xã hội mà quyền sở hữu cá nhân bị tước đoạt, tỷ lệ các tổ chức kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, công, nông nghiệp, v.v... là của công quyền nắm giữ, thì đó là cái nôi phục vụ cho tham nhũng, và tha hóa.

Sức mạnh của một xã hội là ở sự giải phóng quan hệ sản xuất và tư liệu sản xuất, chứ không phải là nhà nước và đảng ôm quan hệ sản xuất và tư liệu sản xuất về riêng cho mình. Tham nhũng và hũ hóa đã là căn bệnh của nước Việt từ 38 năm qua, chứ không chỉ hôm nay. Nhưng hôm nay nó trở thành nạn dịch là nhờ vào cuộc cách mạng internet cho thấy rõ hơn, và bệnh đã đến lúc không còn thuốc chữa. Đó là hậu quả của một nền chính trị thối nát phục vụ cho cái xấu.

Vấn đề hiến pháp

Chính trị là nghệ thuật của sự có thể. Như tôi đã chứng minh rằng, sức mạnh của một đất nước không phải là của các chủ thuyết hình thành nên chế độ, hay do chính khách nặn ra để phục vụ quyền lợi thông qua chính đảng của mình đang cầm quyền. Vấn đề sức mạnh rường cột của một quốc gia là dân khítư duy của cộng đồng dân chúng và quan lại, chứ không phải cái gì khác.

Bằng chứng cho những vấn đề trên là nước Mỹ chưa bao giờ vỗ ngực đi theo chủ thuyết nào. Tên nước Mỹ cũng không cho thế giới thấy rằng họ theo chế độ kiểu nào - Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ: United States of America. Nhưng các quốc phụ của nước Mỹ chỉ đơn thuần xây dựng nước Mỹ theo tuyên ngôn độc lập và hiến pháp mà họ đã cùng nhau soạn thảo. 

Lâu nay mọi người đã quá nhầm tưởng hiến pháp chỉ đơn thuần là luật cơ bản. Nhưng khác với những hiến pháp của hầu hết các quốc gia trên thế giới, hiến pháp nước Mỹ không chỉ đơn thuần là một bộ luật cơ bản. Nó còn là một hợp đồng khế ước của chính khách với nhân dân và tổ quốc của tất cả mọi giống dân từ thiểu số đến đa số cùng về Tân thế giới - nước Mỹ để kiếm tìm mảnh đất tự do dân chủ - rằng, họ phụng sự cho một quốc gia do dân, vì dân và của dân hùng cường đi đến lãnh đạo toàn cầu, với tinh thần Tổ Quốc, Danh Dự và Trách Nhiệm.

Hiểu vấn đề hiến pháp một cách đơn giản đúng với bản chất của nó, để từ đó chúng ta có thể đi đến vấn đề chiến lược quốc gia dài hạn. Thế thì vấn đề hiến pháp của Việt Nam phải tập trung vào sửa đổi những vấn đề cốt tử nào?

Đầu tiên của hiến pháp là phải tập trung vào vấn đề này: "Một nước Việt Nam độc lập, tự chủ, tự cường, và của dân vì dân do dân, mà không vì bất cứ chủ thuyết, đảng phái, chế độ nào cả". Trong một rừng chủ thuyết triết học của nhân loại từ khi khai sinh lập địa của loài người, chủ thuyết nào cũng có cái hay, cái dở. Hãy chọn cái hay mà học, mà thực hiện. Cái dở, cái sai nên loại bỏ. Ấy mới là lãnh đạo anh minh biết yêu nước thương nòi.

Nói như thế, không có nghĩa là một đất nước không có đảng phái chính trị, mà là cần nhiều đảng phái chính trị nữa là khác. Và các đảng phái chính trị đó phải vì tôn chỉ này trong ứng cử và tranh cử công minh hợp pháp, theo đúng quy luật mâu thuẫn và phát triển của triết học. Vì không có cái gì độc tôn mà đúng với quy luật triết học, và sẽ lụi tàn là điều tất yếu. Trên cơ sở đó, chúng ta mới có những chiến lược lâu dài không thụ động, không vụ lợi cá nhân, đảng phái hay bất kỳ một phe phái của ngoại bang nào muốn xen chân vào tổ quốc này.

Thứ hai là hiến pháp phải giải phóng sức dân. Để giải phóng sức dân thì không có gì ngoài việc công nhận quyền sở hữu cá nhân - bản chất của mọi loài đã thành quy luật. Vì không ai phải bỏ công cho việc cha chung không ai khóc. Chỉ có những kẻ phản động - phản lại quyền và lới ích của quốc gia dân tộc - mới còn bám víu vào sở hữu công toàn dân để xà xẻo, tư túi trên xương máu dân tộc và tài nguyên của quốc gia. Trong cái chung phải phục vụ, nó phải mang lại quyền lợi cho cái riêng của mỗi thành viên trong xã hội, thì mới có động lực để thúc đẩy cái riêng dốc toàn tâm, toàn ý mà phụng sự cho cái chung. Đó là triết học biện chứng.

Thứ ba và cuối cùng là, hiến pháp Việt nam phải tạo ra một sân chơi rạch ròi cho tam đầu chế của đất nước, để tạo dựng một bầu không khí chính trị công bằng cho mọi công dân sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật. Việc điều hành đất nước với chiến lược lâu dài, hằng định theo những quy luật khoa học, chứ không theo bất kỳ của một ý chí chính trị nào, của đảng phái nào đưa ra vì quyền lợi của đảng phái hay tổ chức chính trị ấy.

Với việc dựng xây hiến pháp như trên việc tiếp theo cần phải làm là thực hiện sự thay đổi chính trị. Vì kinh tế sụp đổ hôm nay là do lỗi chính trị sai lầm làm kinh tế đi sai đường, không thuốc chữa, chứ không phải lỗi của việc điều hành kinh tế.

Vấn đề cốt tử là chuyển đổi chính trị

Để thực hiện những điều trên, như tôi đã viết, nên tách đôi đảng cộng sản đang cầm quyền tại Việt Nam ra thành 2 đảng. Chỉ có cách này mới không tổn hại đến tổ quốc và dân tộc có nguy cơ đổ máu một lần nữa.

Tại sao phải tách đôi? Vì bản chất của đảng cộng sản ở Việt Nam không còn là cộng sản nữa, mà chỉ là một tôn giáo phục vụ cho quyền lợi của các con chiên đang lợi dụng đảng, để đi theo một hình thái chính trị xã hội nửa tư bản hoang dại, nửa phong kiến tập quyền. Nó đang mất tính chính danh ban đầu của nó, và nó đang đi ngược lại quyền lợi của quốc gia dân tộc, vì nó tự đặt ra hiến pháp sai quy luật để phục vụ cho quyền lợi của nó. mà không vì quốc gia dân tộc.

Sau khi tách đôi nó ra, việc đặt tên cho chúng có thể là đảng bảo thủ và đảng cấp tiến. Mỗi đảng phái nên có tôn chỉ hành động có tính chiến lược lâu dài, có tính trường phái triết lý cho vận mệnh của quốc gia, không nên là một tôn giáo duy ý chí theo chủ thuyết này hay chủ thuyết nọ, để ứng cử, tranh cử theo một chiến lược lâu dài của mình, nhằm phụng sự cho tổ quốc và dân tộc, mà tôi đã đề ra ở trên một cách công minh và toàn tâm, toàn ý. Đây là con đường tất yếu phải đến của mọi hình thái chính trị xã hội, vì nó là đúng quy luật triết học.

Bây giờ ở trên đất nước Việt Nam không có ai có sức mạnh cứng và mềm như tập hợp của những thành viên thuộc đảng cầm quyền. Thực hiện chuyển đổi chính trị bây giờ là thời điểm thích hợp nhất, nếu không, e rằng đất nước sẽ có biến, khi lòng dân và kể cả lòng quân không còn chỗ để sợ bất cứ cái gì, dù gươm kề cổ, súng kề tai, và lúc ấy thì đã muộn.

Chính trị luôn ù lỳ và chậm thay đổi hơn kinh tế. Vì chính trị là ý chí của con người, nó tùy thuộc vào yếu tố chủ quan của con người. Còn kinh tế là động, nó phụ thuộc vào quy luật bàn tay vô hình của thị trường khách quan cung cầu chỉ huy, mà không bị sự chi phối của ý chí con người. Quy luật kinh tế cung cầu chi phối cả những nền chính trị năng động nhất, kể cả Hoa Kỳ. Cho nên khủng hoảng tài chính và kinh tế cũng có chu kỳ, vì lòng tham vô đáy của con người làm khủng hoảng thừa cung mà thiếu cầu.

Nhưng một khi đã chuyển thành một nền chính trị năng động thì, các chu kỳ khủng hoảng kinh tế sẽ tức thì được ổn định nhanh chóng, và chính trị cũng vững vàng theo. Vì về mặt triết học, kinh tế quyết định chính trị, và chính trị tác động kiềm hãm hay thúc đẩy kinh tế phát triển. Các cường quốc của thế giới cấp tiến đã minh chứng cho điều này. Nước Mỹ trong cơn bạo bệnh năm 2008, làm cả thế giới suy sụp theo, nhưng hôm nay phục hồi nhanh nhất cũng là nhờ vào một nền chính trị năng động giúp kinh tế ổn định trong nạn suy trầm.

Trung Hoa "khỏe mạnh" là thế, với hơn 20 năm tăng trưởng kinh tế hơn 10%/năm, nhưng khi quy luật cung cầu của bàn tay vô hình trong kinh tế phát huy tác dụng, thì họ đang tiến thoái lưỡng nan, không biết cách nào để có thể tránh được một cuộc sụp đổ cả kinh tế lẫn chính trị.

Dân khí, dân trí và lòng tin mất thì mất cả thế kỷ để phục hưng, nhưng từ đói nghèo để đi đến giàu có thì chỉ cần thời gian bằng thập kỷ. Lịch sử Việt Nam đã chứng minh hùng hồn điều này.

Với những thay đổi từ tư duy đến hành động mà tôi đã viết trong 3 bài của loạt bài Thoát Trung Luận này, chắc chắn nền chính trị Việt Nam sẽ lấy lại lòng tin dân chúng trong nước, cộng đồng trên thế giới, và nước Việt sẽ hùng cường lâu bền.

Một khi đã có một chiến lược đúng đắn và bền lâu, thì chúng ta đâu còn sợ gì phải dựa vào ai, để chèo lái con thuyền của đất nước mãi chòng chành trong bão tố? Việc Thoát Trung Luận cũng đâu còn là quá khó, mà phải đi cầu cạnh, bang giao theo kiểu kẻ trên, người dưới?

Đây là một loạt 3 bài viết tổng thể cho một sự chuyển đổi tốt đẹp nhất, ít tổn thương nhất đối với nước nhà và dân tộc. Việc cụ thể hóa những gì tôi tâm tình ở đây cần phải có một sự chuẩn bị công phu, chi tiết gồm những dự án cho từng lĩnh vực từ chính trị đến kinh tế và cả văn hóa giáo dục, v.v... trong một xã hội pháp trị. Nó là một hành trình gian nan của chính quyền và dân chúng. Nhưng cho dù gian nan đến đâu, mà để hậu thế ghi ơn, cộng đồng quốc tế sửng sốt và nể nang như họ đã nhìn Miến Điện hôm nay, và Nhật Bản cách đây 2 thế kỷ, cũng như Hàn Quốc trong chỉ 4 thập kỷ qua, thì phải làm và mạnh dạn làm.

Loạt bài này như một nén hương xin kính gửi những oan hồn hơn 3 triệu dân Việt đã ngã xuống - dù ở bên này hay ở bên kia chiến tuyến, vì cuộc nội chiến 20 năm trong quá khứ, để có một nước Việt thống nhất hôm nay - hãy phù hộ cho tổ quốc và dân tộc này thoát khỏi cảnh chư hầu ngàn năm còn hằn sâu trong tâm khảm của mọi thế hệ.

Nguồn : BACSIHOHAI

THƯ GỬI CHỦ TỊCH NƯỚC

Kính gửi Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang
nhân chuyến công du Hoa kỳ sắp tới
Chúng tôi, những người Việt Nam trĩu nặng ưu tư về vận nước, đang băn khoăn theo dõi những diễn biến mới về thời cuộc trong nước và trên thế giới, bày tỏ với Chủ tịch Nước nhân chuyến công du Hoa Kỳ sắp tới một số suy nghĩ sau đây:
1. Cuộc công du của Chủ tịch Nước lần này diễn ra trong bối cảnh của những hoạt động quốc tế dồn dập ở khu vực Đông Nam Á, Đông Á, Châu Á-Thái Bình Dương và trên thế giới, đặc biệt là cuộc hội đàm riêng giữa Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng thống Obama, rồi chuyến công du của Chủ tịch Nước đến Trung Quốc và k‎ý‎ kết Tuyên bố chung Việt Nam-Trung Quốc.
Những cam kết đưa ra trong Tuyên bố chung Việt Nam-Trung Quốc chưa ráo mực thì ngay lập tức trên Biển Đông, các tàu hải giám của Trung Quốc đã rượt đuổi và hành hung tàu cá của ngư dân ta đang hành nghề trên vùng lãnh hải của Việt Nam gần quần đảo Hoàng Sa. Hành động ngang ngược này diễn ra đồng thời với việc họ tổ chức cấp phát giấy chứng minh nhân dân và giấy cư trú đợt đầu cho người Trung Quốc ở cái gọi là “thành phố Tam Sa”, mà ngay khi họ thành lập, Việt Nam đã tuyên bố rõ ràng rằng việc làm này của Trung Quốc đã vi phạm chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và hoàn toàn vô giá trị.
Đây là một hành động có tính toán thể hiện rõ âm mưu và thủ đoạn xảo quyệt của giới cầm quyền Bắc Kinh, cho nên không thể trông mong vào điều mà người phát ngôn của Bộ Ngoại giao ta tuyên bố “khi đường dây nóng đi vào hoạt động, hai bên sẽ có thể nhanh chóng, kịp thời trao đổi thông tin và biện pháp xử lý các vụ việc phát sinh đột xuất liên quan đến nghề cá”. Làm sao có thể tin vào giới cầm quyền Trung Quốc khi họ nói một đằng, làm một nẻo? Vì vậy, tuyệt đối không thể để cho những “cam kết”, những “tuyên bố” với Trung Quốc trong thời gian vừa qua phủ bóng và ảnh hưởng xấu tới cuộc công du của Chủ tịch Nước đến Hoa Kỳ lần này.
Chừng nào các nhà lãnh đạo Việt Nam vẫn còn lướng vướng trong vòng kiềm tỏa của “mười sáu chữ”, “bốn tốt” nhằm che đậy thủ đoạn của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán, chừng ấy Việt Nam vẫn bị đẩy vào quỹ đạo Trung Quốc, đất nước sẽ vẫn còn trầm luân. Nếu lại chỉ dựa vào những giải pháp như kiểu “đường dây nóng” thì e chỉ có thể dẫn tới việc trói tay trói chân người yêu nước đang quyết liệt đấu tranh vạch mặt mưu đồ đen tối của kẻ xâm lược, khác nào những thỏa thuận ngầm nhằm làm suy giảm ý chí quật cường bất khuất của toàn dân Việt Nam, đang phẫn nộ vạch trần những thủ đoạn xấu xa, lừa mị.

2. Chuyến công du của Chủ tịch nước diễn ra trong bối cảnh đất nước đang gặp nhiều khó khăn. Thực trạng kinh tế rất đáng lo ngại. Nhiều hoạt động kinh tế bị đình đốn, nhiều doanh nghiệp phá sản, người lao động thiếu việc làm, nông dân và ngư dân gặp vô vàn trở ngại, đời sống các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là người nghèo, người sống ở vùng sâu vùng xa hết sức khó khăn. Nhiều giải pháp tháo gỡ đang được đặt ra và xúc tiến mạnh mẽ, trong đó việc tham gia Hiệp định Đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) cần được xem như một hướng ra, một giải pháp quan trọng. Đây là vấn đề được đưa ra trong chương trình nghị sự của Chủ tịch Nước với người đồng cấp Hoa Kỳ.
Tuy nhiên những điều kiện tham gia TPP không đơn thuần chỉ là những cam kết về kinh tế mà bao gồm cả những vấn đề dân chủ và nhân quyền. Báo chí và truyền thông Mỹ những ngày gần đây liên tục đưa tin về chủ đề này. Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, ông David Shear đã không ngần ngại nói rõ: “Sẽ có rất nhiều người ở Quốc hội Mỹ đặt câu hỏi về vấn đề dân chủ, nhân quyền của Việt Nam khi chúng tôi trình hiệp ước đó (TPP) lên, chúng tôi không thể tránh được thực tế chính trị đó”. Tuy thế, dân biểu Frank Wolf của Đảng Cộng hòa vẫn quyết liệt: “Người dân Việt Nam và hàng triệu người Mỹ gốc Việt xứng đáng được hưởng điều kiện tốt hơn những gì mà Đại sứ Shear và chính quyền này mang lại. Chính quyền Obama đã làm thất vọng mọi công dân Việt Nam và mọi công dân Mỹ gốc Việt vốn quan tâm đến nhân quyền và tự do tôn giáo”.
Phải chăng đó cũng là lý do tại sao gần đây hai văn bản về nhân quyền đối với Việt Nam lại gấp rút được soạn thảo và trình lên Hạ nghị viện và Thượng nghị viện Mỹ. Trong đó, có nội dung ràng buộc điều kiện nhân quyền và dân chủ vào các khoản viện trợ phi nhân đạo dành cho chính phủ Việt Nam, đồng thời cổ súy thái độ cứng rắn hơn trong lĩnh vực nhân quyền và tự do tôn giáo, thêm vào đó có điều khoản về đóng băng và cấm chỉ giao dịch liên quan đến tất cả tài sản và lợi ích của những đối tượng vi phạm luật này. Tổ chức Phóng viên Không biên giới mới vừa đưa ra một danh sách 35 blogger bị giam cầm ở Việt Nam là một cảnh báo về sự vi phạm một cách trắng trợn điều 19 của Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, khi Việt Nam đang ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền: “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng và biểu đạt. Quyền này bao gồm sự tự do tư tưởng mà không bị cản trở, được tự do tìm kiếm, thu nhận và quảng bá tin tức và ý kiến qua mọi phương tiện truyền thông bất kể biên giới”. Không phải ngẫu nhiên Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc tuyên bố: “Tất cả các nạn nhân của việc vi phạm nhân quyền có thể trông cậy vào Hội đồng nhân quyền như một diễn đàn và một bàn đạp cho các hành động”.
Ấy vậy mà, trong khi đời sống kinh tế bị đình đốn thì giới cầm quyền nước ta lại tăng cường bắt bớ, trấn áp người yêu nước; những người bày tỏ chính kiến một cách ôn hòa chống Trung Quốc xâm lược vẫn bị khủng bố, đe dọa theo điều 258 của Bộ luật Hình sự, điều đó đã tạo một áp lực đè nặng lên tâm trạng xã hội. Chừng nào mà cái gọi là “tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” đang được vận dụng hết sức tùy tiện và tràn lan chưa bị xóa bỏ, thì gương mặt Việt Nam về dân chủ và nhân quyền chưa thể được cải thiện trong ánh mắt của công luận trong khu vực và trên thế giới. Không thể nhập nhằng khái niệm “nhân đạo” như cách mà báo chí nhà nước đưa tin với việc khẳng định thực thi quyền con người, thực thi dân chủ. Tình trạng ấy làm cho việc tham gia vào TPP không thể thuận buồm xuôi gió được.

3. Đó là hai trở ngại to lớn mà Chủ tịch Nước đang đối diện. Tuy vậy, đây lại là thời cơ để thể hiện bản lĩnh của người gánh vác trọng trách trước Tổ quốc và nhân dân. Và đây cũng là thời cơ thuận lợi để đẩy tới công cuộc “giải Hán hóa” mà dân tộc ta bao đời nung nấu, quyết thoát khỏi quỹ đạo Trung Quốc hội nhập vào thế giới dân chủ, văn minh. Ông cha ta từng răn dạy, bỏ lỡ thời cơ là sự bỏ lỡ tệ hại nhất mà rồi cái giá mà dân tộc phải trả là không sao lường hết. Chính vì vậy mà cách đây hơn năm trăm năm, Nguyễn Trãi đã cảnh báo: “Thời! Thời! Thực không nên lỡ”. Chúng tôi hy vọng rằng Chủ tịch sẽ không phụ lòng mong mỏi của ông cha để xứng đáng với đòi hỏi của nhân dân đang chăm chú dõi theo chuyến công du quan trọng này.
Xin gửi Chủ tịch Nước lời chào trân trọng.

Ngày 19.7.2013

DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI GỬI THƯ ĐẾN CHỦ TỊCH NƯỚC
1. Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện IDS, Hà Nội
2. Bùi Tiến An, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên cán bộ Ban Dân vận Thành ủy TP HCM, TP HCM
3. Lại Nguyên Ân, nhà nghiên cứu phê bình văn học, Hà Nội
4. Huỳnh Kim Báu, nguyên Tổng thư ký Hội Trí thức yêu nước TP Hồ Chí Minh, TP HCM
5. Nguyễn Nguyên Bình, Hội viên Hội Nhà văn Hà Nội, Hà Nội
6. Nguyễn Trọng Bình, nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Tại chức TP Hải Phòng, Hải Phòng
7. Nguyễn Huệ Chi, GS, nguyên Chủ tịch Hội đồng Khoa học Viện Văn học, Hà Nội
8. Tống Văn Công, nguyên Tổng biên tập báo Lao động, TP HCM
9. Nguyễn Trung Dân, nhà báo, TP HCM
10. Nguyễn Đắc Diên, bác sĩ, TP HCM
11. Nguyễn Xuân Diện, TS, nhà nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội
12. Hoàng Dũng, PGS TS, TP HCM
13. Phạm Chí Dũng, nhà báo tự do, TP HCM
14. Hà Dương Dực, Hoa Kỳ
15. Lê Hiếu Đằng, nguyên Phó Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP Hồ Chí Minh, Đại biểu Hội đồng Nhân dân TP Hồ Chí Minh khóa 4, 5, TP HCM
16. Nguyễn Đình Đầu, nhà nghiên cứu, TP HCM
17. Phạm Văn Đỉnh, TSKH, Pháp
18. Nguyễn Ngọc Giao, GS, nhà báo, Paris, Pháp
19. Lê Công Giàu, nguyên Phó Bí Thư thường trực Thành Đoàn TNCS TP HCM, nguyên Phó Tổng Giám đốc Tổng công ty Du lịch TP HCM
20. Chu Hảo, PGS TS, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
21. Đặng Thị Hảo, TS, nguyên Phó ban Văn học Cổ Cận đại, Viện Văn học, Hà Nội
22. Võ Thị Hảo, nhà văn, Hà Nội
23. Phạm Duy Hiển, GS TS, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
24. Hồ Hiếu, cựu tù Côn Đảo, nguyên Chánh văn phòng Ban Dân vận Mặt trận, Thành uỷ TP Hồ Chí Minh, TP HCM
25. Võ Văn Hiếu, nguyên cán bộ Đài phát thanh giải phóng thuộc Ban Tuyên huấn Trung ương cục Miền Nam
26. Nguyễn Xuân Hoa, nguyên Giám đốc Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Thừa Thiên Huế, Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế
27. Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Giám mục Giáo phận Vinh
28. Nguyễn Thế Hùng, GS TS, Trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng, Phó Chủ tịch Hội Cơ học Thủy khí Việt Nam, Đà Nẵng
29. Hà Thúc Huy, PGS TS, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, TP HCM
30. Nguyễn Thị Từ Huy, TS, TP HCM
31. Phạm Khiêm Ích, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, nguyên Phó Viện trưởng Viện Thông tin, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam
32. Trần Hữu Kham, thương binh mù, cựu tù chính trị Côn Đảo trước 1975
33. Trần Hữu Khánh, cán bộ hưu trí, TP HCM
34. Lê Xuân Khoa, GS, nguyên Phó Viện trưởng Ðại học Sài Gòn, Hoa Kỳ
35. Nguyễn Khuê, cán bộ hưu trí, TP HCM
36. Viễn Kính, nhà báo, TP HCM
37. Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, nguyên thành viên Tổ chuyên gia tư vấn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Viện IDS, TP HCM
38. Cao Lập, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Giám đốc Làng Du lịch Bình Quới, TP HCM
39. Lương Văn Liệt, nguyên cán bộ Thanh niên Xung phong, nguyên cán bộ Chi cục thuế, TP HCM
40. Trần Văn Long, nguyên Tổng thư ký Ban vận động cải thiện chế độ lao tù miền Nam Việt Nam (trước 1975), nguyên Phó Bí thư Thành đoàn TP HCM, TP HCM
41. Nguyễn Văn Ly, nguyên Phó phòng PA 25 CA thành phố HCM, nguyên thư ký của Bí thư thành ủy TP HCM Mai Chí Thọ
42. Nguyễn Khắc Mai, nguyên Vụ trưởng Ban Dân vận Trung ương, Hà Nội
43. Huỳnh Tấn Mẫm, bác sĩ, nguyên Đại biểu Quốc hội khóa 6, nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn trước 1975, TP HCM
44. André Menras - Hồ Cương Quyết, cựu tù chính trị trước năm 1975, Pháp
45. GB Huỳnh Công Minh, Linh mục, Tổng Giáo phận Sài Gòn, TP HCM
46. Phạm Gia Minh, TS, Hà Nội
47. Trần Tố Nga, cựu tù chính trị trước 1975, Pháp
48. Kha Lương Ngãi, nguyên Phó Tổng biên tập báo Sài Gòn Giải phóng, TP HCM
49. Nguyên Ngọc, nhà văn, nguyên thành viên Viện IDS, Hội An
50. Hạ Đình Nguyên, cựu tù chính trị Côn Đảo trước 1975
51. Nguyễn Xuân Ngữ, cựu chiến binh, TP HCM
52. Hồ Ngọc Nhuận, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP Hồ Chí Minh, nguyên Giám đốc chính trị nhật báo Tin sáng, TP HCM
53. Trần Đức Nguyên, nguyên thành viên Tổ chuyên gia tư vấn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Trưởng ban Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
54. Phan Thị Hoàng Oanh, TS, TP HCM
55. Nguyễn Hữu Phước, nhà báo, TP HCM
56. Nguyễn Kiến Phước, nhà báo, TP HCM
57. Đoàn Chí Phương, nguyên cán bộ Ban Giao bưu Trung ương cục Miền Nam
58. Ngô Văn Phương, Đại biểu Hội đồng Nhân dân TP HCM khóa 5, Ủy viên MTTQ TP HCM khóa 6
59. Phạm Xuân Phương, Đại tá, cựu chiến binh, Hà Nội
60. Đào Xuân Sâm, nguyên thành viên Tổ chuyên gia tư vấn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, Hà Nội
61. Tô Lê Sơn, kỹ sư, TP HCM
62. Nguyễn Ngọc Sơn, nguyên Phó Tổng Biên tập tạp chí Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Phó Tổng Biên tập tạp chí Thế giới trong ta, Hà Nội
63. Lê Văn Tâm, nguyên Chủ tịch Hội người Việt Nam tại Nhật Bản, ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam khóa VII, Nhật Bản
64. Trần Công Thạch, hưu trí, TP HCM
65. Nguyễn Quốc Thái, nhà báo, TP HCM
66. Trần Thị Băng Thanh
67. Jos Lê Quốc Thăng, Linh mục, Tổng Giáo phận Sài Gòn, TP HCM
68. Lê Thân, cựu tù chính trị Côn Đảo, TP HCM
69. Trần Văn Thọ, GS, Đại học Waseda, Nhật Bản
70. Võ Văn Thôn, nguyên Giám đốc Sở Tư pháp TP HCM, TP HCM
71. Trần Quốc Thuận, luật sư, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, TP HCM
72. Phan Văn Thuận, Giám đốc công ty TNHH Phú An Định, TP HCM
73. Phạm Toàn, nhà giáo, Hà Nội
74. Nguyễn Thị Ngọc Toản, GS, bác sĩ, Đại tá, cựu chiến binh, Hà Nội
75. Nguyễn Thị Ngọc Trai, nhà văn, nguyên Phó Tổng Biên tập báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam, Hà Nội
76. Nguyễn Thị Khánh Trâm, nghiên cứu viên, TP HCM
77. Phạm Đình Trọng, nhà văn, TP HCM
78. Vũ Quốc Tuấn, nguyên trợ lý Thủ tướng Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, Hà Nội
79. Hoàng Tụy, GS, Viện Toán học, nguyên Chủ tịch Viện IDS, Hà Nội
80. Hà Dương Tường, nguyên GS Đại học Compiègne, Pháp
81. Trần Thanh Vân, kiến trúc sư, Hà Nội
82. Tô Nhuận Vỹ, nhà văn, Huế

Nguồn : BAUXITVN

13 thg 7, 2013

CHÍNH PHỦ TA VUI TÍNH THẬT...

CS4S - Những quyết định, đề xuất, phát ngôn được dư luận cho là khác thường, chỉ có ở Việt Nam và bắt nguồn từ những cán bộ công chức... vui tính, chỉ tạm thống kê từ năm 2012 đến nay.

2012:
1. Đóng thuế đẻ (2012)

2. Dạy tiếng Tàu trong trường tiểu học (2012)

3. Cấm doanh nghiệp vốn đầu tư từ Đài Loan treo cờ Đài Loan tại Việt Nam dưới mọi hình thức (công văn 2186/UBND-VX, 2012)

4. CMND ghi tên cha mẹ trong đó.(2012)

5. Thịt làm ra phải bán trong vòng 8 tiếng (2012).


6. Cấm buôn vàng miếng và sẽ cấm đến vàng trang sức (2012)

7. Người chết phải chôn sau 48 tiếng (2012)

8. Làm đập thủy điện tại Nam Cát Tiên.

9. Xe phải “chính chủ” (2012)

10. Chó mèo phải “chính chủ” (2012).

11. Dừng dự án, chia nhỏ căn hộ để cứu bất động sản (2012)

12. Chó mèo chết phải đăng ký “báo tử” (2012)

13. Phải đăng ký tên thật khi lên internet.(2012)

14. Thu phí nhạc số (2012).
(2013)
1. Cấm uống rượu trong quá Karaoke (không cấm bia).

2. Đám cưới không quá 300 người

3. Đám ma không quá 7 vòng hoa

4. Xác chết quàn không được để trong nắp kính. (Sau đó chừng 1 tháng lại cho đi viếng mang vòng hoa, rắc vàng mã….)

5. Đóng thuế xe bảo trì đường bộ.


6. Niêm phong lồng gà "chính chủ".

7. Dán tem rau, thịt, cá.

8. Cấm chửi nhau trên facebook, nhấn “like” sai bị phạt.

9. Con bất hiếu cha mẹ bị phạt 20 triệu đồng

10. Làm hàng giả bị phạt tối đa 100 triệu đồng.

11. Bán hàng rong phải có Giấy Khám sức khỏe và Chứng nhận Tập huấn an toàn thực phẩm.

12. Cấm mua bán nhà đất, ô tô bằng tiền mặt.

13. Chỉ được đăng ký xe ở nơi thường trú.

14. Cấm nghe nhạc Asia hải ngoại.


15. Cấm trẻ dưới 5 tuổi học trường có vốn đầu tư nước ngoài. Trường nước ngoài tại Việt Nam chỉ được nhận 10% học sinh Việt Nam Tiểu học & THCS), 20% học sinh Việt Nam (trường phổ thông theo chương trình nước ngoài).

16. Có quota mới được nhập xe hơi.

17. Phạt tới 20 triệu nếu tiết lộ giới tính thai nhi

18. Xài điện quá ít cũng bị phạt.

19. Thu phí đọc thơ online

20. VFF ra Ban Tư vấn đạo đức.

21. Giới tính công dân Quỳnh Trâm sẽ do Thủ tướng quyết định.


22. Không mua vàng dưới 1 lượng

23. Trúng tuyển đại học vẫn phải đi nghĩa vụ quân sự.

24. Đánh thuế vàng

25. Trẻ dưới 10 tuổi và thương bệnh binh phải mua vé qua phà

26. Đi nước ngoài 2 năm bị xóa tên trong hộ khẩu

27. Bộ Giáo dục và Đào tạo  cấm phát tán thông tin tiêu cực
28. Xe khách được gắn sao để phân định chất lượng.

29. Đánh thuế tiền tiết kiệm


30. Chửi Cảnh sát bị phạt 5 triệu.

31. Phạt người đội mũ bảo hiểm dỏm (mại dâm thì bắt người bán, mũ bảo hiểm thì bắt người mua)

32. Đấu thầu bán vàng để giảm giá

33. Thông tư 08/2013 BTC cấm ký chứng từ bằng bút mực đen.

34. Công an được phép bắn người cản trở thi hành công vụ

35. Ngoại tình bị phạt 1 triệu đồng.

36. Xe máy 2 bánh phải có Giấy Chứng nhận An toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường.

37. Phạt tiền giáo viên không đạt chuẩn.

38. “Quyền công dân có thể bị giới hạn..” (dự thảo hiến pháp 2013)

39. “Khiếu kiện nhiều lần phải đặt cọc”


40. Dự thảo Luật Thi đua khen thưởng bổ sung hàng loạt các danh hiệu mới: Nhà khoa học nhân dân, Nhà khoa học ưu tú, và đặc biệt, danh hiệu “DANH NHÂN”.

41. Chở trẻ đi xe máy phải kèm Giấy khai sinh

42. Trang bị iPad cho CSGT.

43. Nói xúc phạm người sinh con 1 bề (toàn trai hay toàn gái) bị phạt 1 triệu đồng.

44. Nhà ở thương mại được giảm diện tích xuống 25m2.

45. Phải xin tạm vắng trước khi đăng ký tạm trú

46. Phạt ngoại tình tăng 5 triệu.

47. Phạt rồi bỏ phạt kết hôn đồng giới.

48. Phạt tội mạo danh người khác trên facebook.

49. Luật hóa cho phép chạy chức, chạy quyền (PGS.TS Nguyễn Hữu Tri).

50. Đề nghị “còn trinh tiết mới được thi hoa hậu”.

51. Đề xuất cấm bán rượu bia sau 22h.

52. Học sinh muốn học thêm phải làm đơn

53. Trẻ sơ sinh phải có mã số thuế.

54. Tết 2014 được đốt pháo không nổ

55. Muốn chống tiêu cực thi cử phải đăng ký trước.

56. Phạt tiền nếu không mặc quần áo lót nơi đông người.

57. Nói tục nơi công cộng phạt 200 ngàn đồng.

58. Cấm xây nhà nhại kiến trúc cổ điển Pháp.

59. Thay đổi lời Quốc ca.

60. Dán tem đồ uống, kể cả bia.

61. Chào mừng ngày báo chí cách mạng Việt Nam 21-6, BV đa khoa Hoàn Mỹ Cửu Long (Cần Thơ) cho phóng viên và vợ phòng viên khám phụ khoa miễn phí.

62. Doanh nghiệp có 10 lạo động trở lên phải tổ chức hội nghị lao động hàng năm.

63. Ưu tiên 2 điểm thi đại học cho Bà mẹ Việt Nam Anh hùng (hoạt động Cách mạng từ trước 1-1-1945).

64. Phụ nữ 33 tuổi trờ lên không được phép mang thai

65. Chống chì chiết vợ bị phạt.

66. Chồng kiểm soát tiền vợ sẽ bị phạt.

67. Trang bị Ipad cho Đại biểu HĐND tại Sóc Trăng.

68. Có con ngoài giá thú phải xin phép lãnh đạo (vụ bà phó phòng quậy ở Trà Vinh).

Nguồn : Blog Mai Thanh Hải