Chào mừng bạn đến với blog ĐỌC & SUY NGẪM .

31 thg 1, 2013

Hai năm làm Tổng bí thư, Nguyễn Phú Trọng đang đưa chế độ và đất nước đi về đâu?

Toàn đảng và nhân dân đang chứng kiến tận mắt từng ngày những người có quyền lực cao nhất, đứng đầu là Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Tấn Dũng, đang xô đẩy đảng và Chính phủ chống lẫn nhau rất kịch liệt. Thay vì tập trung tâm trí và sức lực vào việc giải quyết những khó khăn kinh tế, canh tân đất nước, tạo ấm no hạnh phúc cho nhân dân, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ trước sự thôn tính của Bắc kinh thì họ lại đang dùng tiền bạc của nhân dân qua tiền đóng thuế và lợi dụng các cơ quan nhà nước để lập phe nhóm chống đối và thanh toán lẫn nhau rất tàn bạo và tồi tệ!
 
Trong hai năm đứng đầu chế độ Nguyễn Phú Trọng đã tổ chức 6 Hội nghị Trung ương (HNTU), trong đó quan trọng nhất là các HNTU 4, 5 và 6. Theo tính toán của Nguyễn Phú Trọng, sau một năm chuẩn bị cả mặt nhân sự lẫn tổ chức để củng cố quyền hành nên cuối năm 2011 ông đã triệu tập HNTU 4 (26-31.12.11) với mục tiêu là giải quyết ”những việc cần làm ngay”, trong đó ưu tiên giải quyết dứt khóat vấn đề nhân sự ở cấp cao nhất. Tuy vào lúc đó Nguyễn Phú Trọng không nói thẳng ra, nhưng nhiều quan sát viên biết là ông muốn cô lập và loại Nguyễn Tấn Dũng (1). Vì trong thế giới quan cực kì bảo thủ CS như ông Trọng thì trong đảng không thể có chỗ cho hai vua. Nếu tình trạng này được tiếp tục kéo dài sẽ đe dọa sự tồn vong của đảng và chế độ. 

Trong hơn 6 năm dưới thời của Nguyễn Tấn Dũng vai trò của chính phủ ngày càng lấn át vị thế của đảng. Đặc biệt Nguyễn Tấn Dũng đã biết lợi dụng việc chỉ huy các tập đoàn, tổng công ty nhà nước thành chỗ nuôi vây cánh; đồng thời dùng các dự án xây dựng các hạ tầng cơ sở, các khu công nghiệp và địa ốc do các nguồn tài trợ rất lớn mỗi năm hàng chục tỉ USD từ ODA và FDI để mua chuộc bọn tham quan ở các tỉnh và thành phố. Chỉ trong vài năm Nguyễn Tấn Dũng đã gây được thế lực rất mạnh ngay trong Trung ương đảng. Chả thế ông đã dám cho con trai còn rất trẻ nhảy vào Trung ương đảng rồi nắm ghế Thứ trưởng bộ Xây dựng, con gái giữ vai giám đốc một công ti chứng khoán và địa ốc với sự hậu thuẫn của một ngân hàng quốc doanh rất lớn và người con trai út làm Ủy viên Trung ương Đoàn Thanh niên CSHCM. (2

Tính tham lam vô độ và thủ đoạn nham hiểm của ông Dũng làm chính bản thân ông Trọng đã trải qua nhiều kinh nghiệm đau đớn trong các năm sau này, khi ông thất bại liên tiếp một số lần trong việc buộc tội ông Dũng phải chịu trách nhiệm trong vụ Vinashin làm ăn thất thoát trên 86.000 tỉ đồng (4,5 tỉ USD) vào 2010. Mặc dù Bộ chính trị đã có “Kết luận” ngày 6.8.2010:
“Vinashin đang gặp nhiều khó khăn rất lớn, bộc lộ nhiều yếu kém, sai phạm nghiêm trọng…Tình hình tài chính đứng trước bờ vực phá sản: Theo số liệu ban đầu, ước tính dư nợ hiện đang rất lớn, lên tới khoảng 86.000 tỉ đồng” (3

Khi đó Bộ chính trị còn nêu đích danh Chính phủ phải chịu trách nhiệm. Và chính ông Trọng khi đó đã sử dụng tư cách Chủ tịch Quốc hội bắt Nguyễn Tấn Dũng phải ra điều trần và nhận trách nhiệm 24.11.2010 (xem phần sau). Nhưng sau đó vì muốn nhẩy lên ghế Tổng bí thư, nên ông Trọng đã phải tạm thời chấp nhận thỏa hiệp ra một “Kết luận” mới của Bộ chính trị theo cách hòa cả làng và tha bổng Nguyễn Tấn Dũng. Thật vậy, chỉ ba tháng sau Bộ chính trị lại ra“Kết luận” ngày 8.11.2010:
“Căn cứ kết quả kiểm phiếu và theo quy định của Điều lệ đảng, Bộ Chính trị đã quyết định không xử lý kỷ luật đối với các tập thể và cá nhân.” (4

Tuy nhiên, ông Trọng không thể bỏ qua việc này, nên sau khi nắm chức Tổng bí thư ông bắt tay ngay vào việc tìm cách chấm dứt tình trạng một vua một chúa. Vì ông lạc quan tin rằng, nay với vai trò Tổng bí thư ông sẽ có đủ uy lực giải quyết thành công trong việc này. Cho nên khẩu hiệu trung tâm của HNTU 4 là “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng đảng hiện nay”. Trong diễn văn khai mạc ngày 26.11.11 Nguyễn Phú Trọng báo động:
“Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tệ tham nhũng, lãng phí, hư hỏng trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả ở cấp cao, chưa được đẩy lùi mà thậm chí ngày càng có chiều hướng nghiêm trọng hơn, làm xói mòn lòng tin đối với đảng. Vướng mắc chính là ở chỗ nào?” (5

5 ngày sau trong diễn văn bế mạc ngày 31.12.11 ông Trọng cảnh báo và đe dọa Trung ương đảng về tình trạng chia bè phái trong đảng:
“Nếu đảng ta không thật vững vàng về chính trị, tư tưởng; không thống nhất cao về ý chí, hành động; không trong sạch về đạo đức, lối sống; không chặt chẽ về tổ chức; không được nhân dân ủng hộ, thì không thể đứng vững và đủ sức lãnh đạo đưa đất nước đi lên.” (6)
 
Và ông Trọng tin rằng, giải pháp tự phê bình và phê bình (TPB&PB) là vũ khí sắc bén nhất để làm sạch đảng, và chờ đợi những người có quyền lực cao nhất phải đi đầu làm gương:
“Ở đây, sự gương mẫu của Trung ương là cực kỳ quan trọng, có ý nghĩa quyết định. Từng đồng chí Uỷ viên Trung ương đảng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư tự giác, gương mẫu làm trước; tự phê bình, kiểm điểm, nhìn lại mình; cái gì tốt thì phát huy, cái gì xấu thì tự gột rửa; tránh xa mọi cám dỗ về danh lợi, vật chất, tiền tài; tránh rơi vào vũng bùn của chủ nghĩa cá nhân ích kỷ tệ hại.” (7)
 
Từ các nhận định trên HNTU 4 đã ra Nghị quyết đề ra ba mục tiêu, trong đó mục tiêu đầu tiên coi thanh lọc hàng ngũ trong đảng là công việc cấp bách nhất!:
“Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của đảng, củng cố niềm tin của đảng viên và nhân dân đối với đảng.” (8)
Đồng thời đưa ra ”4 nhóm giải pháp”, trong đó “nhóm giải pháp tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiền phong gương mẫu của cấp trên và của người đứng đầu là giải pháp quan trọng nhất.” (9)
 
Vì tha hóa đạo đức, lối sống ích kỉ nên tệ trạng tham nhũng đã bộc pháp ngày càng bất trị. Do đó trong HNTU 4 ông Trọng đã xếp việc chống tham nhũng lên hàng đầu cần phải giải quyết. Đây là vấn đề bức xúc nhất trong xã hội mà cả trong đảng ngoài dân đâu đâu cũng ca thán. Ông chọn đúng mục tiêu đánh phù hợp với mong mỏi của quần chúng, nhưng không phải là diệt tham nhũng thực sự. Vì nếu quả thực như thế thì ông Trọng đâu có đòi giữ độc quyền cho đảng và vẫn để doanh nghiệp Nhà nước làm chủ đạo trong kinh tế. Bởi vì ông thừa biết chính hai cơ chế này là nguồn gốc của tham nhũng, mua chức chạy quyền. Nhưng ông Trọng vẫn giữ nguyên nó trong Cương lĩnh Chính trị 2011 mà chính ông là tác giả, mặc dù rất nhiều trí thức, văn nghệ sĩ và cả nhiều cán bộ cấp cao đã can gián và chống đối. (10)
 
Do đó tại HNTU 4 khi giương cao ngọn cờ chống tham nhũng ông Trọng chỉ muốn gây thanh thế, dùng áp lực của dư luận để hạ Nguyễn Tấn Dũng, vừa là Thủ tướng và kiêm Trưởng ban Chỉ đạo Trung ương phòng chống tham nhũng. Đó là kế sách mượn gió bẻ măng, giương đông kích tây của Nguyễn Phú Trọng. Chủ tâm này thể hiện càng rõ trong các việc làm tiếp theo của ông.
 
Sau khi phất cao ngọn cờ “chống tham nhũng” trong HNTU 4, chỉ hai tháng sau Nguyễn Phú Trọng cho tổ chức Hội nghị Cán bộ toàn quốc với sự tham dự của trên 1000 cán bộ cao cấp kéo dài ba ngày từ 27. tới 29.2.12. Ông Trọng hãnh diện bảo đó là hội nghị lớn nhất từ trước tới nay của ĐCSVN. Tại đây ông dùng khẩu khí và ngôn ngữ điêu luyện của người đã từng mấy chục năm cầm đầu công tác tư tưởng và tuyên truyền để tìm cách đánh động lòng người, đi sâu vào tâm trạng của đảng viên, mong mở ra một cuộc chiến tranh tâm lí có lợi nhất cho mình. Vì thế trong diễn văn dài trên 12.000 chữ, ngay trong phần đầu nói về “bản thân đảng” ông Trọng đã dùng cách tả chân nhằm gây xúc động cho trên một ngàn cán bộ cao cấp cũng như nhân dân biết rõ mức cách biệt giầu nghèo và phân chia giai cấp sâu sắc ngay trong nội bộ đảng hơn 60 năm cầm quyền của chính ĐCS, và đặt câu hỏi làm liên tưởng tới thời kì đảng chống địa chủ, phú hào trước đây hơn nửa thế kỉ:
“Bây giờ trong đảng cũng có sự phân hóa giàu-nghèo, có những người giàu lên rất nhanh, cuộc sống cách xa người lao động; liệu rồi người giàu có nghĩ giống người nghèo không?” (11)
 
Thế rồi để tỏ ra là người dù đang nắm chức cao nhất nhưng vẫn giữ tấm lòng vô sản chân chính so với nhiều đại quan đã trở thành triệu phú Dollar, sống trong biệt thự và nhung lụa, ông Trọng còn tự đắc nhắc câu của L. Feuerbach: “Người sống trong lâu đài nghĩ khác người ở trong nhà tranh… Rồi ông lại mỉa mai và đe dọa, Mai kia đảng này sẽ là đảng của ai?” (12)
 
Sau khi khơi dậy tâm lí căm thù, ông Trọng đã tuyên bố phát động phong trào "tự phê bình và phê bình" rộng lớn trong toàn đảng vào thời gian tới. Ai sẽ là đối tượng của phong trào chỉnh đảng đã được ông Trọng nói rõ trong phần cuối diễn văn. Đó chính đối thủ chính trị vẫn ngồi cạnh ông, dù bất lực nhưng lại chỉ lo thu vén cho gia đình:
“Cán bộ lãnh đạo…, đặc biệt là người đứng đầu“, “phải tự giác, gương mẫu làm trước”, “tự kiểm điểm, soi lại mình, đơn vị mình, gia đình mình. (13)
 
Trong nguyên bản của diễn văn này chỉ ba chữ “gia đình mình” đã cố tình cho in đậm nét. Như thế người cầm đầu chế độ và tác giả của diễn văn này đã muốn chiếu tướng ai, đe dọa ai trong phong trào "tự phê bình và phê bình" vào các tuần tới thì ai cũng hiểu được! Như vậy ông Trọng đã cho mọi người biết lời giải đáp ông đã nêu ra trong diễn văn bế mạc HNTU 4: “Vướng mắc chính là ở chỗ nào?”
 
Trong việc chống tham nhũng và sự suy thoái đạo đức của cán bộ Nguyễn Phú Trọng tin rằng, chỉ thanh toán một số cán bộ ăn bẩn thì tự nhiên đảng sẽ sạch và chế độ sẽ vững. Thật vậy như trình bày ở phần trên, ông Trọng đã nhấn mạnh nhiều lần trong diễn văn, chống tham nhũng và chỉnh đốn đảng không phải là giải tán ĐCS, mà chính là củng cố sự lãnh đạo toàn diện của đảng này:
“Thực tế ở nước ta cho thấy, càng đi vào đổi mới, đi vào phát triển kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập lại càng cần phải có sự lãnh đạo của đảng”. (14)
 
Và ông Trọng vẫn tự đắc quả quyết, ”sự lãnh đạo đúng đắn của đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng VN “và ngạo mạn nhấn mạnh thêm” trước kia đã như vậy, hiện nay đang như vậy và sau này cũng sẽ như vậy”. (15)
Các nhận định trên cho thấy, Nguyễn Phú Trọng vẫn để tư tưởng cực kì bảo thủ và lạc hậu làm kim chỉ đạo hành động. Ông vẫn tin chủ nghĩa tư bản sẽ đến ngày dẫy chết: “Những mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc” (16). Và vẫn tin rằng, chủ nghĩa Tư bản không chống lại được sức mạnh của “ba dòng thác cách mạng”, một học thuyết tuyên truyền của Liên xô (cũ) và CS Trung quốc từ các thập niên 50, 60 của thế kỉ trước:
“Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, giữa phong trào hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội với các thế lực đế quốc cực đoan, hiếu chiến đang diễn ra dưới nhiều hình thức, sắc thái mới, rất quyết liệt.” (17)
 
Mặc dầu đứng đầu chế độ vào đầu Thế kỉ 21, nhưng tư duy của ông Trọng vẫn thụt lùi và đóng khung như thời kì giữa Thế kỉ 20. Cho nên – như trong phần I đã trình bày – cũng trong dịp này đứng trước trên 1000 cán bộ cao cấp, Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh tới cái gương của ĐCS Trung quốc:
“đảng Cộng sản Trung quốc trong cải cách, mở cửa cũng luôn luôn khẳng định dứt khoát phải kiên trì vai trò lãnh đạo của đảng Cộng sản, và trong những lần trao đổi với chúng ta, BẠN thường nhấn mạnh không để bị “Tây hóa”, “tha hóa”, “thoái hóa”.” (18)
Như vậy thâm ý của Nguyễn Phú Trọng qua phong trào chỉnh đảng là nhằm hai mục tiêu, đó là loại trừ đối thủ chính trị ở cấp cao nhất và nhân danh đảng để mở rộng quyền thống soái cho chính ông và vây cánh cho giai đoạn về sau này. Vì thế ông còn tập trung mũi tấn công cả trong thành phần đảng viên tiến bộ và trong hàng ngũ thanh niên, trí thức, văn nghệ sĩ yêu nước. Ông Trọng đã kết tội các đảng viên tiến bộ là những người đã “sám hối”, “trở cờ”, “tự diễn biến”. Còn cuộc vận động dân chủ của các tầng lớp nhân dân thì Nguyễn Phú Trọng khinh khỉnh, gọi là “diễn biến hòa bình”.(19)
 
Cho tới lúc đó Nguyễn Phú Trọng vẫn đinh ninh rằng, ông có thể chỉ cần dựa vào thành phần bảo thủ, mà ông tin là vẫn còn nắm chủ động trong đảng, và tận dụng sức mạnh của hệ thống báo chí mà phe ông đang nắm giữ thì có thể tạo một dư luận áp đảo cô lập và loại trừ được vài đối thủ chính trị ở cấp cao, đặc biệt là Nguyễn Tấn Dũng. Cho nên ông đã lạc quan cho là, Hội nghị Cán bộ toàn quốc cuối tháng 2.12 đã tạo được một tâm lí hồ hởi và hi vọng cả trong đảng lẫn ngoài xã hội ủng hộ cuộc chỉnh đảng của ông.
Điều này làm ông Trọng đã tự tin và mạnh dạn đi thêm một bước. Cho nên tại HNTU 5 (7-15.5.12) ông đã thành công trong việc tước một phần quyền của Nguyễn Tấn Dũng bằng cách chấm dứt nhiệm vụ của ông Dũng trong chức Trưởng ban Chỉ đạo Trung ương phòng chống tham nhũng. (20
Nhưng thay vì biết lắng nghe ý kiến của nhiều giới khuyên nên để cho Ban mới này được độc lập để chống tham nhũng hữu hiệu, Nguyễn Phú Trọng đã nhân cơ hội này thừa thắng giành cầm đầu Trưởng ban mới và tái lập Ban nội chính Trung ương để giúp ông trong việc này, đồng thời ép Quốc hội ra một đạo luật chống tham nhũng mới nửa người nửa ngợm. [xem phần III]. Không những thế, trong HNTU 5 Nguyễn Phú Trọng còn chính thức cho khai triển giải pháp TPB&PB được ông coi nó là phương pháp hữu hiệu trong việc làm sạch đảng và còn hồ hởi quyết định để Bộ chính trị và BBT đi tiên phong trong việc này. 
 
Chỉ ba tháng sau Nguyễn Phú Trọng lại cho triệu tập Hội nghị Cán bộ toàn quốc mới (13.8.12) để hồ hởi tường thuật phương pháp và kết quả ông đã thực hiện bắt các Ủy viên Bộ chính trị và Ban bí thư trong nhiều đợt đã TPB&PT suốt 21 ngày trong hai tháng 7 và 8. (21) Tại Hội nghị này Nguyễn Phú Trọng còn tìm cách siết kỉ luật và linh thiêng hóa cuộc chỉnh đảng do ông lãnh đạo, bằng cách lên giọng ra chỉ thị ”toàn đảng đang bước vào thời kì rất thiêng liêng và hệ trọng”. (22) Tuy là người vô thần, nhưng Nguyễn Phú Trọng vẫn phải dùng từ “linh thiêng” để mong đánh động tâm lí và uy hiếp tinh thần cán bộ, đặc biệt bọn tham quan ở các vị trí then chốt. Vì ông nắm bắt được tâm lí của cán bộ tham nhũng các cấp đi lễ thần thánh để cầu tài, cầu quan nườm nượp về đền Trần vào đầu mỗi năm, dùng cả xe công! 

Với cách chuẩn bị và những bước đi bài bản như vậy nên Nguyễn Phú Trọng tin rằng, thời gian đã chín mùi cho việc hạ bệ đối thủ trong đảng. Vì thế ông đã cho tổ chức HNTU 6 và tin rằng, nó sẽ là cao điểm chiến thắng chính trị của ông. Hội nghị kéo dài suốt 15 ngày từ 1. tới 15.10.12 và được coi là một trong vài hội nghị dài nhất từ trước tới nay của ĐCS. (23) Một trong những trọng tâm chính của HNTU 6 là Bộ chính trị công bố kết quả TPB&PB trong hai tháng 7 và 8 và để Trung ương “thảo luận và cho ý kiến về kết quả kiểm điểm tự phê bình và phê bình của tập thể và cá nhân Bộ chính trị, Ban bí thư.” Chỉ riêng đề tài này đã chiếm trọn 1/3 thời gian của HNTU 6. 

Trong HNTU 6 ông Trọng đã vạch ra những sai lầm và thất bại trong lãnh vực kinh tế, tài chánh của Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng:
“Áp lực lạm phát và bất ổn vĩ mô vẫn còn lớn. Thị trường tiền tệ diễn biến phức tạp; nợ xấu ngân hàng ở mức cao; tăng trưởng tín dụng thấp; hoạt động của một số ngân hàng thương mại cổ phần thiếu minh bạch, còn tiềm ẩn nhiều rủi ro; lãi suất ngân hàng vẫn còn quá cao so với hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán vẫn chưa được cải thiện; thị trường vàng còn nhiều biến động. Các đề án tái cấu trúc đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước và ngân hàng thương mại còn có nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện”.(24

Không chỉ kết án những sai lầm và thất bại của người cầm đầu Chính phủ, Nguyễn Phú Trọng còn kết tội sự tha hóa đạo đức, tinh thần vô trách nhiệm và suy tính ích kỉ, gia đình và phe nhóm của ngay nhiều cán bộ cao cấp đương quyền. Tuy không nêu trực tiếp tên người cầm đầu Chính phủ, nhưng đoạn dưới đây trong diễn văn bế mạc của Nguyễn Phú Trọng đã cho thấy ông Dũng là trọng tâm trong tầm bắn của ông Trọng:
“Việc một số cán bộ cao cấp (cả đương chức và nguyên chức) có lúc, có việc còn biểu hiện chưa gương mẫu về đạo đức, lối sống của bản thân và gia đình, nói không đi đôi với làm, đã làm ảnh hưởng lớn đến uy tín của các cơ quan lãnh đạo đảng, Nhà nước và bản thân các đồng chí đó. Chưa tập trung chỉ đạo làm rõ, đánh giá đầy đủ thực chất tình hình để kịp thời có biện pháp kiên quyết khắc phục một số tiêu cực (như chạy chức, chạy quyền, chạy tội… ) và một số trường hợp phân công, đề bạt cán bộ chưa chính xác, chưa được dư luận đồng tình. Trong việc chỉ đạo tổ chức thực hiện các nghị quyết và kết luận của Trung ương, nhất là về doanh nghiệp nhà nước, còn lúng túng, buông lỏng; kiểm tra, giám sát không chặt chẽ, dẫn đến một số tập đoàn kinh tế nhà nước, tổng công ty nhà nước (điển hình là Vinashin, Vinalines) hoạt động kém hiệu quả, có nhiều sai phạm, gây tổn thất lớn, để lại hậu quả hết sức nghiêm trọng. Một số hạn chế, khuyết điểm, chưa được làm rõ thực chất, mức độ, địa chỉ cụ thể, ai phải chịu trách nhiệm, như tình trạng chạy chức, chạy quyền, lợi ích nhóm… “ (25)
 
Mặc dầu đem tất cả uy tín để tấn công dồn dập và mạnh bạo như vậy, nhưng vào ngày cuối vớiđa số rất lớn HNTU 6 đã bác bỏ đòi hỏi phải có biện pháp kỉ luật với Nguyễn Tấn Dũng. Chính việc này ông Trọng phải nhìn nhận. Vào cuối Hội nghị trong tư cách đứng đầu Bộ chính trị, ông đã yêu cầu Banh chấp hành Trung ương quyết định kỉ luật với Bộ chính trị, đặc biệt là“một đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị”:
“Bộ Chính trị đã thống nhất 100% đề nghị Ban Chấp hành Trung ương cho được nhận một hình thức kỷ luật và xem xét kỷ luật đối với một đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị.” (26)
Tuy ông Trọng không nói tên ra, nhưng người mà ông đã từ lâu muốn ra tay trừng trị là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Nhưng thật là bất ngờ cho Nguyễn Phú Trọng, đa số ủy viên Trung ương đảng đã bác bỏ lời yêu cầu của Nguyễn Phú Trọng:
“Về việc đề nghị xem xét kỷ luật, Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận rất kỹ, cân nhắc toàn diện các mặt ở thời điểm hiện nay và đi đến quyết định không thi hành kỷ luật đối với tập thể Bộ Chính trị và một đồng chí trong Bộ Chính trị” (27)
 
Những người am hiểu tình hình ĐCS cho biết, đây là lần tiên Trung ương đảng đã dám chống cả Tổng bí thư lẫn Bộ chính trị. Như thế sẽ hiểu được tại sao, qua màn ảnh truyền hình, khi đọc tới đoạn trên Nguyễn Phú Trọng đã “nghẹn ngào” như muốn khóc. Giữa khi ấy Nguyễn Tấn Dũng ngồi ở hàng đầu lại nheo mắt cười mũi. (28)
Trong đảng và ngoài xã hội đều biết sau hơn 6 năm cầm đầu chính phủ, Nguyễn Tấn Dũng là Thủ tướng tồi tệ về tư cách, thất bại trong các lãnh vực kinh tế tài chánh, chỉ lo thu vén cho gia đình và xây dựng bè nhóm. Giữa tháng 1 vừa qua phía Chính phủ đã phải nhìn nhận, chỉ riêng lãnh vực các tập đoàn và tổng công ti Nhà nước dưới quyền chỉ tuy của Nguyễn Tấn Dũng đã tạo ra món nợ khủng khiếp lên tới 60 tỉ USD, tức khoảng trên một nửa ngân sách quốc gia trong năm qua. ([29]) Không những thế, it nhất ông Dũng đã hai lần lừa đối Quốc hội, nhân dân và đảng viên với những lời hứa nhận trách nhiệm về những sai lầm và thất bại trong việc lãnh đạo các doanh nghiệp Nhà nước các năm vừa qua. Lần thứ nhất, trong vụ Vinashin, ngày 24.11.2010… trong tư cách là Thủ tướng, ông Dũng đã công khai xin lỗi:
“Là người đứng đầu Chính phủ, tôi xin nhận trách nhiệm về những hạn chế yếu kém nêu trên của Chính phủ.”
(30)
Và ông Dũng còn long trọng hứa trước Quốc hội:
“Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ nhận thức sâu sắc trách nhiệm của mình là phải thực hiện tốt nhất chức trách nhiệm vụ được giao, tập trung sức thực hiện có kết quả Kết luận chỉ đạo của Bộ Chính trị.” [31]
Nhưng chỉ một năm sau (8.12.11) Nguyễn Tấn Dũng đã phủ nhận lời xin lỗi và nhận trách nhiệm của mình:
“Xảy ra chuyện như Vinashin, cuối cùng Thủ tướng đứng ra nhận trách nhiệm. Tôi nhận trách nhiệm chính trị với tư cách người đứng đầu Chính phủ, chứ tôi cũng không ra quyết định nào sai”. (32)
 
Lần thứ hai là trong dịp cao điểm của phong trào chỉnh đảng với TPB&PB mới đây. Ngày 22.10.12 ông Dũng cũng ra Quốc hội xin lỗi:
“Với trọng trách là Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ, tôi nghiêm túc nhận trách nhiệm chính trị lớn của người đứng đầu Chính phủ và xin thành thật nhận lỗi trước Quốc hội, trước toàn đảng, toàn dân về tất cả những yếu kém, khuyết điểm của Chính phủ trong lãnh đạo, quản lý, điều hành, nhất là những yếu kém, khuyết điểm trong kiểm tra, giám sát hoạt động của tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước; một số tập đoàn, tổng công ty, điển hình là Vinashin, Vinalines, sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, có nhiều sai phạm, gây tổn thất và hậu quả nghiêm trọng về nhiều mặt, ảnh hưởng lớn đến uy tín và vai trò của kinh tế nhà nước.” (33)
Nhưng chỉ 3 tuần sau, ngày 14.11.12 Nguyễn Tấn Dũng đã phủ nhận trách nhiệm cá nhân và đổ lỗi cho tập thể Bộ chính trị và cho đảng:
đảng lãnh đạo trực tiếp tôi, hiểu rõ về tôi, đảng ta là đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội. đảng đã phân công tôi tiếp tục làm nhiệm vụ Thủ tướng Chính phủ, Quốc hội bỏ phiếu bầu tôi làm Thủ tướng Chính phủ thì tôi sẵn sàng chấp nhận và hoàn thành nghiêm túc mọi quyết định của đảng, của Quốc hội”.(34)
 
Hai lần xin lỗi, rồi hai lần phủ nhận lời xin lỗi của mình, qua đó ông Dũng đã tự bộc lộ bản chất tráo trở, không còn biết tự trọng của một người cầm đầu chính phủ!
Chính vì thế, thất bại thê thảm của Nguyễn Phú Trọng trong việc không thuyết phục được Trung ương đảng ra kỉ luật với Nguyễn Tấn Dũng trong HNTU 6 đã làm bất bình và thất vọng rất lớn trong thành phần đảng viên. Trong cuộc tiếp xúc cử tri ở Hà nội vào 1.12.12 Nguyễn Phú Trọng đã phải nghe lời trách móc của TS Trần Viết Hoàn, nguyên giám đốc khu di tích Bác Hồ tại Phủ chủ tịch:
“Dân chúng tôi căm giận những người tham nhũng, quan liêu đến cực điểm, nên dân chúng tôi lo cho nghị quyết trung ương 4 của đảng, lo cho Luật phòng chống tham nhũng, nếu làm không kiên quyết, không triệt để thì nó lại về như cũ mà còn tồi tệ hơn. Việc phê bình, tự phê bình vừa qua gần như hòa cả làng. Gần như không thấy ai tốt, ai xấu, chẳng thấy bộ phận không nhỏ suy thoái đâu cả. Trên các văn bản vẫn là những điệp khúc muôn thuở.” (35)
***
Câu hỏi ở đây là, tại sao Nguyễn Tấn Dũng đã đi vào những sai lầm và thất bại nghiêm trọng như vậy, nhưng Nguyễn Phú Trọng vẫn bị Nguyễn Tấn Dũng quật ngược lại ngay tại HNTU 6?
 
Sau ba HNTU và hai Hội nghị Cán bộ toàn quốc với nhiều thủ đoạn khác nhau, nhưng ông Trọng vẫn không thuyết phục được các Ủy viên Trung ương đứng về phía mình, ngược lại đa số rất lớn trong Trung ương đảng đã từ chối yêu cầu thi hành kỉ luật với ông Dũng. Sự kiện rõ ràng nhất là các ủy viên trong Bộ chính trị vài khóa về sau này đều như cá mè một lứa, không một nhân vật nào có uy tín và khả năng trội bật, chỉ là sống lâu lên lão làng và biết nhịn, biết nín! Nguyễn Phú Trọng cũng ở trong trường hợp này. Vì trong cuộc họp báo đầu tiên trong tư cách tân Tổng bí thư ông đã xác nhận cho tới ngày chót vẫn chưa biết ai sẽ làm Tổng bí thư. ([36]

Cả trong cuộc bầu các Ủy viên Trung ương và Bộ chính trị khóa 11 ông Trọng cũng đạt được số phiếu rất thấp. Nhiều đảng viên không tin vào khả năng của ông Trọng là có cơ sở. Vì suốt gần hai thập niên có chân trong Bộ chính trị, trước khi nắm chức Tổng bí thư ông Trọng đã đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng, từ Bí thư Thành ủy Hà nội, Trưởng ban Tư tưởng trung ương (nay là Ban Tuyên giáo), Chủ tịch Hội đồng lí luận trung ương và Chủ tịch Quốc hội. Nhưng trong tất cả các chức vụ quan trọng này ông Trọng đã không tạo được một thành tích đặc biệt nào. Trái lại, tuy bề ngoài giữ phong độ giản dị, nhưng ông đã để lại các ấn tượng rất xấu trong đảng cũng như ngoài xã hội về lập trường chính trị của ông: Nguyễn Phú Trọng là người CS cực kì giáo điều, rất thần phục Bắc kinh, đàn áp trí thức và coi thường nhân dân! 

Như vậy, ngoài uy tín thấp, ông Trọng lại chỉ tin vào cánh bảo thủ trong Đảng và mạt sát đảng viên tiến bộ, một bộ phận ngày càng lớn mạnh.
Sự thất bại thê thảm của Nguyễn Phú Trọng trong HNTU 6 chứng minh rằng, ông Trọng đã rất chủ quan và thiếu tầm nhìn, không thấy được hai việc:
1. Chủ trương duy trì độc đảng đồng thời để Kinh tế thị trường định hướng XHCN với việc để cho các tập đoàn và tổng công ti nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong hai thập niên vừa qua, nhất là dưới thời Nguyễn Tấn Dũng, khiến cho bọn tham quan như cá gặp nước tự do vùng vẫy. Vì thế bọn tham quan đã chiếm ưu thế ngay trong Trung ương đảng, từ các cơ quan then chốt trong đảng, các bộ trong chính phủ tới các cơ quan thành ủy, tỉnh ủy cả nước. Do đó trong HNTU 6 họ đã bảo vệ nhau và gạt yêu cầu kỉ luật với Nguyễn Tấn Dũng.
2. Trong tình hình như vậy thì giải pháp TPB&PT mà ông Trọng tin tưởng và thực hiện trong thời gian qua chỉ như cách gãi ghẻ đối với bọn tham quan. Nay ông Trọng – ví như một bác sĩ phải nhìn thấy rằng, lần này món thuốc TPB&PB được ông coi là thần dược dù đã được ông cho con bệnh dùng liều lượng tới mức tối đa (qua việc các ủy viên trong Bộ chính trị và BBT phải trải qua mấy tuần và nhiều đợt TPB&PB, các Hội nghị Cán bộ toàn quốc và các HNTU), nhưng cuối cùng bệnh còn trầm trọng hơn. Chính vì thế Nguyễn Phú Trọng đã tâm sự về nỗi sợ hãi bị bọn tham quan trả thù: “kỷ luật mà không tính kỹ thì lại rối, mai kia là ân oán, thù hằn, đối phó, thành phe phái, rối nội bộ.”(37) Lời nhìn nhận thất bại của người cầm đầu chế độ toàn trị đã cho thấy, sức mạnh của quyền – tiền đã đốt cháy đạo đức, bán đứng lương tâm; lợi ích nhóm và nạn sứ quân đang tung hoành ngay trong các cơ quan đầu não của chế độ toàn trị!
Chính vì vậy, những lời thề sắt đá “linh thiêng”, “hệ trọng” kèm theo những lời đe dọa đanh thép suốt từ HNTU 4 (12.2011) tới HNTU 5 (5.12), rồi hai Hội nghị Cán bộ toàn quốc (2.12 và 8.12) và cả những cuộc họp TPB&PT ở các cấp cao nhất là Bộ chính trị và Ban bí thư kéo dài mấy tuần lễ kèm cả chồng hồ sơ dầy mấy trăm trang vạch tội bọn quan tham nhũng, bất tài, vô trách nhiệm và chỉ biết lo thu vén gia đình-đứng đầu là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cuối cùng không làm ai sợ và cũng chẳng thuyết phục được đa số trong Trung ương đảng. Vì thế HNTU 6 (10.12) phải coi là một cao điểm thất bại nghiêm trọng trong việc chỉnh đảng của Nguyễn Phú Trọng sau hai năm làm Tổng bí thư! Nó hoàn toàn đi ngược lại những kì vọng của Nguyễn Phú Trọng đã tuyên bố trong ngày bế mạc HNTU 4 (31.12.2011):
“Nếu đảng ta không thật vững vàng về chính trị, tư tưởng; không thống nhất cao về ý chí, hành động; không trong sạch về đạo đức, lối sống; không chặt chẽ về tổ chức; không được nhân dân ủng hộ, thì không thể đứng vững và đủ sức lãnh đạo đưa đất nước đi lên.” (38)
Vì thế, thay vì tiến tới đoàn kết, thống nhất trong đảng, sự kình chống lẫn nhau ngay trong Bộ chính trị đã tới mức không còn coi nhau ra gì và công khai tấn công và chửi bới lẫn nhau. Vì thất bại đau đớn, bị phe của ông Thủ lột mặt nạ ngay tại HNTU 6 khiến ông Trọng trở thành Tổng ngố. Cho nên chỉ vài ngày sau HNTU 6 ông Trọng đã hằn học đe dọa ”chưa phải là xong”. Còn Chủ tịch nước đã nhạo báng gọi Nguyễn Tấn Dũng là “đồng chí X” và khuyên ông Dũng “không đủ uy tín thì nghỉ, ở làm gì nữa” và còn thách đố “Nếu chúng ta hèn nhát thì làm đơn gửi cho đảng chúng ta nghỉ, chúng ta rút lui đi để cho những người dũng cảm làm việc”. (39)
Hiện nay tình trạng sứ quân, một triều đình có hai vua nhiều chúa đã trở thành công khai. Sau khi cho nổi lửa cao ngất trời như hỏa diệm sơn nhưng chẳng thiêu được quan tham nào và bị tắt ngóm trong HNTU 6, nay phe ông Trọng đang tự an ủi đi kiếm củi để “nhóm lò”lại. ([40]) Như ông đã mời Bí thư tỉnh ủy Đà nẵng Nguyễn Bá Thanh – người nổi tiếng được coi là dám nói dám làm (?) – ra Hà nội làm Trưởng ban Nội chính trung ương, một Ban vừa được tái lập để giúp Nguyễn Phú Trọng trong công tác chống tham nhũng. ([41]) Nhưng ông Thanh chưa ngồi nóng ghế Trưởng ban mới thì giữa lúc ông Trọng thăm Âu châu, Nguyễn Tấn Dũng đã vội vã tố cáo công khai Thành ủy Đà nẵng dưới thời của Nguyễn Bá Thanh đã có những sai lầm trong chính sách đất đai và gây thiệt hại cho công quĩ cả hàng ngàn tỉ đồng ([42]). Qua đó cho thấy, ông Dũng đã công khai coi thường người cầm đầu chế độ, tìm cách bẽ gẫy những quyết định và tính toán của ông Trọng. Giữa khi đó trong cuộc phỏng vấn đầu năm, khi hỏi về thất bại trong việc thực thi Nghị quyết Trung ương 4 mà cao điểm là HNTU 6, Trương Tấn Sang nay bảo là, “không lùi bước, không thể không làm “và “không nên chán nản!” (43)
Như vậy thật là rõ ràng, toàn đảng và nhân dân đang chứng kiến tận mắt từng ngày những người có quyền lực cao nhất, đứng đầu là Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Tấn Dũng, đang xô đẩy đảng và Chính phủ chống lẫn nhau rất kịch liệt. Thay vì tập trung tâm trí và sức lực vào việc giải quyết những khó khăn kinh tế, canh tân đất nước, tạo ấm no hạnh phúc cho nhân dân, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ trước sự thôn tính của Bắc kinh thì họ lại đang dùng tiền bạc của nhân dân qua tiền đóng thuế và lợi dụng các cơ quan nhà nước để lập phe nhóm chống đối và thanh toán lẫn nhau rất tàn bạo và tồi tệ!

Âu Dương Thệ
25.1.2013
Ghi chú:
[1] Cộng sản (CS) 26 và 31.12.2011, Thông cáo HNTU 4 xem Tạp chí CS 1.2012
[2] BBC 3.11, 11.11 và 24.11.11
[3] Chính phủ điện tử (CP) 8.8.2010, Cùng tác giả:Tự tha bổng về những sai trái cực kì nghiêm trọng trong vụ Vinashin:http://www.dcpt.org/thoisu/baithoisu2011/vinashin.htm#_edn2
[4] Báo cáo Chính phủ 21.3. 2011
[5] Nguyễn Phú Trọng, diễn văn khai mạc HNTU 4, CS 26.12.11
[6] Nguyễn Phú Trọng diễn văn bế mạc HNTU 4, CS 31.12.11
[7] Tương tự (tt)
[8] Tạp chí Xây dựng đảng (TCXDĐ), 21.1.13
[9] tt 

Nguồn: TAIDAY

Hiệp định Paris: Thất bại của Lê Duẩn



Nguồn : ĐÂY

LẠM PHÁT - BÀI CA MUÔN THUỞ CỦA MỘT NỀN CHÍNH TRỊ CHẬM TIẾN

Tháng đầu năm 2013, theo thông báo của Cục thống kê lạm phát quay lại với con số 7.7%. Đây là con số thực, nhưng mà ảo, vì tập tính văn hóa tăng giá hàng hóa của dân mình vào những ngày sắp tết cổ truyền. Nó không nói lên được thực chất của tình hình kinh tế đang tù đọng do giảm sức mua trong suốt năm qua. Nhưng, nó báo hiệu cho một năm mới lạm phát sẽ quay về, nếu chính sách tài khóa của nhà nước tung ra để phục vụ 3 đột phá kinh tế 2013: Ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng cao hơn, và giảm lạm phát!
 

Nghe 3 đột phá thì có vẽ rất hay, nhưng nghịch lý với kinh tế học cơ bản. Vì đã tăng trưởng cao thì ắt có lạm phát, do dòng tiền ào ạt ra thị trường và đẩy sức mua mạnh lên, nhu cầu tăng, trong khi các doanh nghiệp đang đình đốn và trong cơn phá sản, thì ắt sẽ dẫn đến cung hàng hóa sẽ không đủ cầu, giá hàng hóa sẽ tăng, và lạm phát là điều tất yếu. Nên ngay trong 3 đột phá thì cái đột phá thứ 2, thúc đẩy tăng trưởng cao, nó là nghịch lý của giảm lạm phát trong tình hình kinh tế nước nhà.

Hơn nữa, cách đây 2 hôm, họp báo của chính phủ về hướng giải quyết kinh tế tù đọng trong năm 2013 có vấn đề nhức nhối là giải quyết thị trường bất động sản đang đóng băng. Hướng giải quyết của chính phủ thì không có gì khác với một bài viết của tôi cách đây hơn 3 tháng: Giải quyết "nợ xấu" của Việt Nam như thế nào? Một mũi tên giải quyết được nhiều con chim. Thứ nhất giải cứu các sân sau bất động sản đang chết chìm. Thứ hai, thúc đẩy tăng trưởng ảo sau khi bị giảm nặng vì Nghị quyết 11/2011. Và cuối cùng là, làm một cú xén lông cừu triệt để ra ngô ra khoai. Ai chết mặc ai, miễn "đảng" vẫn mạnh khỏe và dìu dắt dân tộc đi từ "thắng lợi này đến thắng lợi khác".

Cách đây 3 hôm, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã chính thức bắt đầu công cuộc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế 2013 bằng cú bơm tiền với số vốn 10.000 tỷ đồng cho Tổng công ty đầu tư phát triển nhà và đô thị - HUD: Housing and Urban Development Corporation. Một tổng công ty mà tập đoàn chính của nó đã bị thủ tướng vừa mới ký lệnh giải tán cách đây 3 tháng, chỉ vì khả năng quản lý yếu kém sau 3 năm thí điểm.

Như vậy, trong tương lai gần, tiền sẽ được tung ra để giải quyết bài toán bất động sản theo cái cách mà người phương Tây đã làm cho người có thu nhập trung bình sẽ có nhà ở sau cả đời người làm lụng vất vả. Cách này thì dòng tiền sẽ ra chậm hơn là cách mua ngay bán đứt như trước đây, huyết mạch sẽ lưu thông và sức sống của xã hội sẽ hồi sinh. Nhưng dù chậm thì dòng tiền vẫn cứ tràn ra thị trường và lạm phát sẽ quay trở lại là điều chắn chắn. Thời điểm lạm phát phi mã có độ trễ của nó, nhưng theo tôi, cuối quý 2 và chuyển sang quý 3 năm nay là có thể.

Vấn đề còn lại là, lạm phát sẽ ở mức nào? Và lạm phát đó nó có góp phần cho các lãnh đạo suy nghĩ về việc làm sao chấm dứt bệnh nan y cho nền kinh tế Việt Nam hay không? Vì với thể chế chính trị như hiện nay thì dù có 2 chuyên gia về chống lạm phát của Nobel kinh tế học năm 2011 - Thomas J. Sargent và Christopher A. Sims - thì cũng bó tay, nên đừng trách chính phủ hay thủ tướng. Vì kinh tế Việt Nam không phải là nguyên nhân của vấn đề mà chính trị Việt là nơi phát sinh mọi vấn đề tha hóa và suy đồi của xã hội Việt một cách toàn diện, trong đó có kinh tế buộc phải sụp đổ. Đó là mối quan hệ biện chứng kinh tế chính trị học mà bất kỳ một sinh viên của bất kỳ đại học nào cũng thấy rõ, mà không cần phải là sinh viên hay chuyên gia kinh tế.
Nguồn : BS HOHAI

ÔNG ĐỖ MƯỜI "ĐẺ RA" LÝ MỸ

Chiều 21-3-1978, Hội trường của trường đảng Nguyễn Ái Quốc II, Thủ Đức, như nghẹt thở. Mấy trăm cán bộ cơ quan trung ương và các tỉnh, thành phố phía Nam được triệu tập về đây từ hai, ba ngày trước. Ăn, ngủ ngay tại đây, nội bất xuất, ngoại bất nhập, công an giám sát chặt chẽ.
Tôi là phóng viên báo Tiền Phong, Trung ương Đoàn trưng dụng làm “nhiệm vụ đặc biệt” cũng  nằm trong số đó.
Nhiệm vụ đặc biệt gì không ai được biết. Qua vài thông tin rò rỉ, các “quân sư quạt mo” nhận định chuẩn bị đánh tư sản thương nghiệp, mật danh X-3,  dưới sự chỉ huy của “Bàn tay sắt” Đỗ Mười và giờ G đã điểm! Khi đó, ông Đỗ Mười là Phó Thủ tướng kiêm nhiệm Trưởng ban Cải tạo Công thương nghiệp Xã hội chủ nghĩa, phụ trách vấn đề cải tạo Công thương nghiệp XHCN tại miền Nam.

             Hôm đó, ông Đỗ Mười mặc chiếc quần Kaki màu cà phê đậm, chiếc áo Sơ mi ngắn tay cùng màu, chân đi dép. Ông có khổ người khệnh khạng, mặt chữ “nãi”, trán ngắn đầy nếp nhăn, miệng cá trê, bờm tóc dựng trông rất dữ. Tôi đã được nghe nói nhiều về tính bốc đồng, nóng nảy của ông Đỗ Mười, hôm  đó được giáp mặt, quả đúng vậy. 
              Đúng như mọi người dự đoán, chiến dịch X-5 đã bắt đầu.
            
Ông  Đỗ Mười đọc Quyết định của Thủ tướng, đọc Chỉ thị 100 - CP, và triển khai kế hoạch cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh tại thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam.   

       Ông nói: “Từ sau giải phóng chúng ta đã thực hiện X-1, tập trung bọn ngụy quân, ngụy quyền học tập cải tạo. Đã thực hiện X-2 đánh bọn tư sản mại bản. Bây giờ chiến dịch X-3, quyết liệt nhất, nhằm tiêu diệt tận gốc rễ chủ nghĩa tư bản, tay sai  đế quốc Mỹ…
       “Đánh rắn phải đánh dập đầu, ta đã đánh dập đầu rồi, nhưng con rắn tư bản đánh dập đầu nó chưa chế, cái đuôi nó còn nguy hiểm hơn cái đầu. Không giần cho nát cái đuôi của nó, thì nó vẫn tác oai tác quái phá chúng ta. Vừa qua kẻ nào vơ vét mì chính (bột ngọt), vải vóc, đường, sữa đầu cơ trục lợi, rồi lại đổ tội cho nhà nước ta chuyển ra Bắc nên thị trường khan hiếm? Chính là bọn tư sản thương nghiệp! Kẻ nào tích trữ thóc gạo để dân ta đói? Chính là bọn đầu nậu lúa gạo. Tôi hỏi các đồng chí, kẻ nào cung cấp lương thực, thực phẩm cho tổ chức phản động trên Lâm Đồng chống phá cách mạng? Kẻ nào? Chính là bọn tư sản đấy! Bọn gian thương đầu cơ, phá hoại, bọn ngồi mát ăn bát vàng, rút rỉa máu xương đồng bào ta, ngăn cản con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa của đảng ta ...”.
                Ông Đỗ Mười nói say sưa, hùng hồn, quyết liệt. Mép ông sủi bọt. Tay ông vung vẩy. Mồ hôi trán đầm đìa.
              
Lúc đầu ông mặc quần áo nghiêm chỉnh, sau một hồi diễn thuyết khoa chân múa tay, ông bật nút áo sơ mi phanh ngực ra. Cuối cùng cởi phăng cái áo sơ mi ướt đẫm mồ hôi, trên người ông chỉ còn mỗi chiếc áo may ô ba lỗ.
                Ông vẫn hăng nói: “Cho nên chúng ta phải róc thịt chúng ra. Bắt chúng lao động sản xuất, tự làm lấy mà ăn. Phải biết cày ruộng, cấy lúa, trồng ngô. Đất hoang còn nhiều, bắt chúng  đổ mồ hôi sôi nước mắt  kiếm miếng ăn ...”.
               Bầu không khí ngột ngạt và kích động muốn nổ tung  hội trường. Sức nóng từ Đỗ Mười truyền đến từng người. Tiếng vỗ tay rào rào, tiếng cười tiếng nói hả hê. Những gương mặt hừng hực khí thế "xung trận".
               Xin đừng ở vị trí hôm nay phán xét những người trong cuộc ba mươi lăm năm trước, thời điểm đó tư duy của mọi người khác bây giờ, nhất là tư duy của những cán bộ đảng viên vốn tin tưởng tuyệt đối vào đường lối chính sách của đảng. Những người mà Đảng bảo sao cứ làm đúng phắc như vậy. Hãy bình tĩnh nhìn lại một cách trung thực, khách quan, để thấy một phần nỗi đau của mình, bạn bè mình, dân tộc mình, nỗi đau từ sự ấu trĩ, nóng vội, làm ào ào, đặt trái tim không đúng chỗ ngay từ  khởi đầu!
                Ông Đỗ Mười kết thúc buổi triển khai chiến dịch X-3, bằng một mấy cái chém tay như có 'thượng phương bảo kiếm': “Anh nào, chị nào nhụt ít chí thì lui ra một bên. Kẻ nào tỏ ra nhân nhượng với bọn tư sản là phản bội giai cấp, không phải Bôn - sê- vích, có tội với đảng với dân, sẽ bị trừng trị!”.
                Chúng tôi  ra về với một tâm trạng nặng nề, mag theo lời cảnh tỉnh “Tuyệt đối bí mật”. 
 
               Nhưng hình như linh tính đã báo điềm chẳng lành cho thành phố Sài Gòn.  Đó là cảm giác của tôi khi chạy xe máy từ cầu Công Lý lên cảng Bạch Đằng vòng qua Chợ Lớn. Người dân đổ ra đường nhiều hơn, vội vã, tất tưởi, gương mặt thất thần,  nhiều tốp người tụm nhau bàn tán. Người ta nháo nhào đi mua từng cân muối ký gạo, như sắp chạy càn. Người dân thành phố vốn nhạy cảm và đó lại là cảm giác đúng: Thủ tướng nào thì chưa biết, nhưng trước hết phải lo thủ lấy miếng ăn!
 
             Bảy giờ sáng hôm sau, ngày 23-3-1978, tất cả các cửa hàng kinh doanh to nhỏ, đủ mọi ngành nghề, ngóc ngách, đóng cửa, án binh bất động theo lệnh của Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Một bản thông báo ngắn gọn do ông Vũ Đình Liệu thay mặt UBND thành phố ký được ban hành ngay sau  đó, xác nhận “Chiến dịch X-3”, bắt đầu ở thành phố mang tên Bác.
                Tất cả các cơ sở kinh doanh, buôn bán, nhà hàng, cửa hàng, kho tàng, trung tâm dịch vụ bị niêm phong. Danh sách đã được lên từ trước. Họ làm bí mật lâu rồi. Như một trận đánh giặc đã được trinh sát, điều nghiên tỉ mỉ, chính xác. Các tổ công tác ập vào từng điểm bất ngờ, nhanh chóng niêm phong  tài sản, khống chế mọi người trong gia đình nội bất xuất, ngoại bất nhập. Mỗi điểm niêm phong có tối thiểu một tổ ba người, không cùng cơ quan, không quen biết nhau. Họ là thanh niên xung phong, thanh niên công nhân các nhà máy, sinh viên các trường đại học, cả những thanh niên các phường được huy động vào chiến dịch.  
 
   
Chiều tà ngả bóng về tây...
                Ngay buổi chiều hôm ấy một cuộc mít tinh tuần hành từ  Nhà văn hóa thanh niên do Thành đoàn tổ chức. Hàng ngàn học sinh, sinh viên rầm rộ xuống đường, diễu hành khắp các phố chính Sài gòn, Chợ Lớn, hoan nghênh chính sách cải tạo công thương nghiệp của đảng, đả đảo bọn gian thương. Suốt đêm Câu lạc bộ thanh niên vang lên bài ca “Tình nguyện”, “Dậy mà đi”. Khi chống Mỹ sinh viên học sinh hát những bài hát ấy, giờ cũng hát những bài hát ấy để tăng bầu nhiệt huyết  đánh tư sàn!
 
                  Ngày 26-3-1978, cô công nhân Nguyễn Thị Bé B.  ở nhà máy dệt Phong Phú được kết nạp đoàn vì từ chối nhận một món quà của một cơ sở kinh doanh mà cô canh giữ. Tiếp theo một trường hợp tương tự, anh thanh niên Vũ Ngọc Ch.  ở nhà máy dệt Thắng Lợi.
                Mấy ngày sau tiếng trống ở trường Trần Khai Nguyên quận 5, vang lên, như trống trận. Đó là nơi tập trung của 1.200 thanh niên học sinh người Hoa xuống đường ủng hộ chính sách cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, người  dẫn đầu là cô học sinh lớp 11, có gương mặt búp bê, mái tóc cắt ngằn: Lý Mỹ.
             Lý Mỹ là con gái một gia đình kinh doanh buôn bán, có một cửa hàng ở đường Cách mạngTháng Tám, quận 10. Khi X-3 nổ ra, Lý Mỹ mới 17 tuổi,  được tổ chức đoàn tuyên truyền giáo dục lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, được kết nạp đoàn khóa 26-3, được nghe đích thân ông  Đỗ Mười nói chuyện về chính sách cải tạo công thương nghiệp. Trái tim non trẻ của cô học sinh mười bảy tuổi như sôi sục bầu máu nóng đấu tranh giai cấp,  cô đã chọn đối tượng để đấu tranh, đó chính là cha mẹ mình.
               Lý Mỹ vận động thuyết phục cha mẹ kê khai tài sản, cha mẹ chần chừ, cô trực tiếp đứng ra kê khai. Cô theo dõi bố mẹ cất giấu vàng bạc, của cải, báo cho tổ kê khai moi móc ra bằng hết. Lý Mỹ phát biểu trên báo: “Tinh thần Pavel Corsaghin sáng chói trong trái tim tôi! Tôi không cần vàng bạc, của cải, cha mẹ tôi bóc lột của nhân dân. Từ hôm nay tôi  từ bỏ giai cấp bóc lột, bước sang cuộc sống mới, hòa vào dòng người lao động vinh quang  xây dựng xã hội chủ nghĩa” (Báo Tiền Phong số 40 ,1978).
               Khi cha mẹ vật vã than khóc, và dọa ra nước ngoài,  Lý Mỹ tuyên bố nếu cha mẹ xuất cảnh, cô sẽ ở lại một mình, chấp nhận  cuộc sống cô đơn để cống hiến cho lý tưởng cộng sản !
 
                Không phải chỉ có một Lý Mỹ, mà hàng trăm “Lý Mỹ” như vậy. Những “Lý Mỹ” được sinh ra nóng hổi dưới lá cờ  Đoàn thanh niên cộng sản Hổ Chí Minh.
               Khi cải cách ruộng đất ở miền Bắc tôi là đứa trẻ sáu tuổi đi xem đấu tố như xem hội hè, khi cải tạo công thương nghiệp ở miền Nam, tôi ba mươi tuổi, là người trong cuộc. Trước con mắt tôi, cuộc cách mạng sau chỉ khác cuộc cách mạnh trước là  không bắn giết,  còn  giống hệt  nhau. Cũng con tố cha mẹ, vợ tố chồng, bạn bẻ tố nhau. Những cán bộ từng hoạt động bí mật trong  chiến tranh, được những gia đình  buôn bán , giàu có bao bọc, giờ quay ngoắt lại tịch thu tài sàn ân nhân của mình.  Những tính từ bọn, đồng bọn, “tên tư sản”, “con buôn” thay danh từ  ông, bà, anh, chị. Gần ba chục năm trước, người bị quy là địa chủ, phú nông xấu xa thế nào, thì 1978,  người bị gọi là  tư sản, con buôn  xấu xa  như vậy. Người ta  đã phủ nhận một tầng lớp tiên tiến của xã hội, nhục mạ tầng lớp đó, đào hố ngăn cách giữa các tầng lớp nhân dân, và kéo lùi sự phát triển của đất nước, đó là một sự thật lịch sử cần ghi nhận.
              Chiến dịch X-3 thành phố Hồ Chí Minh, đã đánh gục  28.787 nhà máy, xí nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh, hộ buôn bán.
 
              Ông Nguyễn Văn Linh nói: “ Khi tôi làm Trưởng ban cải tạo trung ương,  tìm hiểu và dự kiến Sài Gòn, Chợ Lớn có khoảng 6.000 hộ kinh doanh buôn bán lớn. Khi anh Đỗ Mười thay tôi, anh ấy áp dụng theo quy chuẩn cuộc cải tạo tư sản Hà Nội từ năm 1955, nên con số mới phồng to lên như vậy” (Nguyễn Văn Linh, Những trăn trở trước đổi mới).
              Ông  Đỗ Mười  đưa  hàng ngàn hộ tiểu thương, trung lưu  vào diện cài tạo, gộp luôn những hộ sản xuất vào đối tượng đó.
              Ông Nguyễn Văn Linh nói: “Anh Mười không trao đổi với chúng tôi. Anh ấy có 'thượng phương bảo kiếm' trong tay, toàn quyền quyết định”  (Nguyễn Văn Linh  trăn trở cuộc đổi mới).
               Ông Đỗ Mười thay ông Nguyễn Văn Linh làm Trưởng ban cải tạo ngày 16-2-1978. Trong chiến dịch X-3, Đỗ Mười không sử dụng  người cùa Nguyễn Văn Linh, mà đưa hầu hết cán bộ từ miến Bắc vào nắm giữ những vị trí quan trọng. Đồng thời ông bố trí  cán bộ  các ngành thương nghiệp, giao thông vận tải, công nghiệp nhẹ, kho hàng vào tiếp quản. Ông đóng đại bản doanh ở Thủ Đức, trực tiếp chỉ đạo, không tham khảo bất cứ ý kiến  ai trong cơ quan lãnh đạo thành phố Hồ Chí Minh.  
               Kết quả X-3, với “công lao to lớn” của Đỗ Mười, thu được khoảng hơn 4.000 kg vàng, gần 1.200.000 đô la, và một khối lượng hàng hóa không thống kê hết. Từ chiếc xe hơi, TiVi, tủ lạnh, đến bịch bột giặt, quả trứng gà đều khê khai và tịch thu chất trong các kho, để rồi  không cánh mà bay, hoặc biến thảnh phế thải. 
 
               X-3, cú đòn trời giáng cuối cùng, biến “Hòn ngọc Viễn Đông” thành “Thành phố chết”, đẩy thêm dòng người bỏ đất nước ra đi bất chấp hiểm nguy, bao nhiêu số phận  đã rã rời trên biển sâu. Năm 2005, nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt nhìn nhận: “Trong các chiến dịch cải cách ruộng đất và cải tạo công thương nghiệp, nhiều nhân sĩ yêu nước, nhiều nhà kinh doanh có công với cách mạng đã không được coi như bạn nữa, gây những tổn thất lớn về chính trị và kinh tế".
                Có lần chúng tôi hỏi nhà báo Trần Bạch Đằng: “Hình như trong  63 năm tham gia cách mạng và làm lãnh đạo, ông Đỗ Mười không đề lại một tác phẩm nào?”.  Ông Trần Bạch Đằng chớp mắt nhếch cái miệng méo xẹo:  “Cha ấy để lại cho đời  tác phẩm cải tạo công thương nghiệp !” .
                Ông Đỗ Mười sinh ngày 2-2-1917 tại Thanh Trì, Hà Nội. Ông làm rất nhiều chức vụ quan trọng, từng làm Tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam 1991-1997.
               Tôi không muốn viết chân dung ông bởi chẳng có gỉ đáng viết, chỉ ghi lại vài dòng những người đồng chí của ông, nhận xét về ông.  
 
               Ông Đoàn Duy Thành, nguyên Phó Thủ tướng chính phủ kề: “Một lần anh Mười xuống Hải Phòng, tôi và anh Nguyễn Dần  dẫn anh ấy đi thăm nhà máy đóng tàu. Đi ngang Quán Toan thấy cái nhà hai tầng, anh Mười hỏi: “Nhà ai đây?”  tôi trả lời: “Dạ nhà anh Bút lái xe”, anh Mười nói: “Nếu tôi mà là bí thư , chủ tịch thành phố tôi sẽ tịch thu ngay cái nhà này làm nhà mẫu giáo!” .
                Ông Đỗ Mười là người đố kỵ với Đại tướng Võ Nguyên Giáp, không biết vì ghen ghét tài năng hay nguyên nhân gì. Ông Đoàn Duy Thành kể: “Chuẩn bị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V, anh Mười gọi tôi tới, nêu vấn đề anh Văn năm 16 tuổi được thực dân Pháp cho sang Pháp học 6 tháng. Rồi anh Mười bảo, về nói cho đoàn đại biểu Hải Phòng biết, và những ai quen biết ở các đoàn khác cũng nói cho các đồng chí ấy biết. Tôi hỏi anh Trường Chinh, anh Trường Chinh bảo: “Võ Nguyên Giáp năm 1941-1942, kể cả việc làm con nuôi Martin trùm mật thám Đông Dương là chuyện bịa hết!... Anh Mười, anh ấy rất võ biền. Các cuộc họp tôi nói, anh ta thường chặn lời tôi..." (Làm người là khó). 
 
                  Ông Nguyễn Văn Linh trong một lần hội nghị ở T78 đã nói thẳng với ông Đỗ Mười: “Anh Mười tưởng rằng làm Uỷ viên Bộ chính trị là to lắm, muốn nói gì thì nói, muốn làm gì thì làm, muốn phê bình ai cũng được... Anh Mười đứng dậy nói: “Tôi nói đó là tinh thần Bôn-sê-vich” (Làm người là khó).
                  Ông Đoàn Duy Thành kể tiếp: “Có lần tôi hỏi anh Tô (Phạm Văn Đồng): “Còn Đỗ Mười thì sao?”.  Anh Tô suy nghĩ hai ba phút rồi nói:  “Chỉ có phá !”.
              Nguyên Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói rất đúng với trường hợp cải tạo công thương nghiệp.
               Năm nay ông Đỗ Mười hơn chín chục tuổi rồi. Nghe nói ông vẫn phải nuôi con mọn. Tôi không biết có đúng không, và nếu đúng, tương lai nó sẽ ra sao? Cầu trời, nó đừng như những “đứa con” sinh ra từ cuộc cải tạo công thương nghiệp 1978 như Lý Mỹ!
 
Nguồn : BUIVANBONG