Chào mừng bạn đến với blog ĐỌC & SUY NGẪM .

16 thg 4, 2012

DÂN TỘC TA SẼ CÒN TRẦM LUÂN!


Nhiều người dân quan tâm bài diễn văn của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng (như bài giảng) ở Trường Đảng Cao cấp Nico Lopez - một trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ rất quan trọng của Trung ương Đảng Cộng sản Cuba. Ngày hôm qua, trong bài viết bình luận: ”Bộ máy biến lãnh đạo thành cái máy” của đại tá, nhà báo Bùi Văn Bồng, tôi nhắc đến lời than của Anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi khi phải chứng kiến cảnh đất nước khó khăn mà lòng người không thuận:

“Nhân tài như lá mùa thu
 Hào kiệt như sao buổi sớm”

Lịch sử cũng cho thấy nhân tài, tuấn kiệt nước ta thời nào cũng có và mỗi khi đất nước gặp khó khăn, họ lại xuất hiện rất nhiều để trổ tài kinh bang tế thế! Anh hùng dân tộc, nhà văn hóa vĩ đại Nguyễn Trãi đã để lại lời răn và đặt ra yêu cầu lớn cho chúng ta trong công tác đào tạo và sử dụng con người đặc biệt là đội ngũ cán bộ được gọi là “công bộc, đầy tớ của nhân dân”.
Tổng bí thư là người đứng đầu, có thể hiểu là nhân tài trong Đảng nhưng phải nói thật lòng, đọc kỹ bài diễn văn để đời của ông ở Cuba, nhiều người dân phải thốt lên rằng :”Dân tộc ta sẽ còn trầm luân”!  Bài diễn văn của Tổng bí thư có thể nói mượn danh chủ nghĩa Mác nhưng nội dung chính là tô vẽ cho chủ nghĩa xã hội và định hướng xã hội chủ nghĩa trái với tình hình thực tế, quy kết những khuyết tật của chủ nghĩa tư bản trong khi những khuyết tật ấy còn trầm trọng hơn ở những nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa với chế độ toàn trị.
Điều quan trọng hơn là cuộc đi thăm Cuba và bài nói ở trường Đảng nhằm mục đích gì? Có lợi gì cho đất nước? Giúp gì cho việc tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của thế giới đối với nước ta? Việc Brazil từ chối tiếp là một chuyện chưa từng xẩy ra trong lịch sử ngoại giao của nước ta, có ý kiến cho là một vết nhục! Vì sao có chuyện này?
Có ý kiến cho là do bài diễn văn nói vỗ mặt Mỹ và các nước phương Tây, khiến cho dư luận xã hội, nhất là các đảng đối lập với chính quyền Brazil không đồng tình, còn Chính phủ và đảng cầm quyền ở Brazil khó xử nên hủy bỏ chuyến đi thăm để tránh hệ lụy rắc rối.
Công bằng mà nói, ở khía cạnh nào đó cần chia sẻ và đồng cảm với Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng khi tôn thờ lý luận của Các Mác vì thực tế chưa có học thuyết nào có tác dụng sâu, rộng như lý luận của Mác. Các quan điểm phớt lạnh, bác bỏ dẫn đến quyết liệt chống đối hay huyền thoại hóa, tôn sùng lý luận của Mác như tôn giáo của tín đồ hoặc lợi dụng kiếm chác tung hô cho mục đích riêng của mình thì sớm hay muộn cũng bị thực tế cuộc sống đào thải.  
Tôi làm công tác khoa học kỹ thuật, cho nên để hiểu về khoa học chính trị xã hội phải đọc rất nhiều các nguồn tư liệu, thảo luận, lĩnh hội ý kiến của một số vị trưởng thượng đối chiếu với thực tế để suy ngẫm. Theo tôi hiểu về tác phẩm, hiện nay loài người chưa có toàn tập của Mác.  Giữa thập kỷ 80 của thế kỷ XX Liên Xô và Đông Đức dự kiến xuất bản toàn tập của Mác gồm 100 tập (MEGA mới) nhưng không thành vì Liên Xô sụp đổ.
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu khẳng định ở Cuba : Đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân Việt Nam”.  Không cần bắt bẻ ý kiến nói trên vì chưa có trưng cầu dân ý nhưng để tránh tù mù cho cả người nghe và người nói, cần phân tích tìm hiểu chủ nghĩa  xã hội là gì? Khái niệm “chủ nghĩa xã hội” xuất hiện đầu tiên ở Tây Âu vào năm 1827 (không phải của Mác)  để phê phán trường phái Xanh Ximông. Đến năm 1832 chính Xanh Ximông dùng lại khái niệm CNXH nhưng bỏ đi sắc thái phê phán, và các biểu cảm xấu. Từ năm 1837 từ “CNXH” phổ biến sang Đức trong phái Hêghen trẻ. Lúc bấy giờ Mác ở trong phái Hêghen trẻ, tiếp nhận từ “CNXH” để chỉ cái xã hội mới, sau khi chủ nghĩa tư bản bị loại bỏ, bị vượt qua và dùng từ “CNXH” trong các bản thảo của Mác năm 1844. Nhưng từ năm 1848 trở đi, từ Tuyên ngôn Đảng cộng sản thì Mác không dùng từ “CNXH” nữa mà dùng từ “chủ nghĩa cộng đồng”. Xã hội mới, chế độ mới, thay thế cho xã hội tư bản. Các nhà nghiên cứu cũng vạch ra một chỗ mù mờ, không rõ ràng trong tác phẩm “Chống Duyrinh” của Anghen về khái niệm CNXH. Bernstein người bạn gần gũi với Mác ở Luân Đôn cũng chỉ gọi CNXH với cái nghĩa là cuộc vận động tự lập trong đó có phần thúc đẩy bởi cuộc đấu tranh có ý thức của giai cấp công nhân, nó không gắn liền hữu cơ với chủ nghĩa cộng đồng, là mục đích còn rất xa vời, trừu tượng! 
Bản thân Lê Nin tiếp nhận từ “CNXH” nhưng trong việc thực hành cách mạng, Lê Nin vừa coi CNXH là bước thấp của chủ nghĩa cộng sản nhưng nhiều khi lại vừa coi đó là một hình thái kinh tế xã hội và một phương thức sản xuất riêng biệt, được xuyên tạc thành lý luận hóa. Lê Nin quan niệm xây dựng CNXH phải đa dạng luôn thay đổi vì phải mò mẫm, và vòng vèo dích dắc. Lê Nin vận dụng thành quả của cả loài người, kể cả của chủ nghĩa tư bản. Cuối đời Lê Nin có nhận định quan trọng là chúng ta phải thay đổi cơ bản quan niệm về CNXH nhưng lại không chỉ ra được quan niệm CNXH phải thay đổi là cái gì, thay đổi như thế nào, khi nào?. 

     Trong hình thái kinh tế xã hội và phương thức sản xuất Mác gọi cái xã hội sau chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa cộng đồng chứ không phải chủ nghĩa xã hội. Mác không bao giờ quan niệm chủ nghĩa xã hội là một phương thức sản xuất xã hội vv... 
Muốn hiểu đánh giá khách quan về Mác cần phải xem xét lý luận và thực tế cuộc sống thời Mác và thực tiễn hoạt động của con người. Thực tiễn là hoạt động của con người, còn thực tế bao hàm nghĩa rộng hơn về cuộc sống xã hội, cuộc sống có môi trường thiên nhiên và vũ trụ. Hayek cũng là một nhà lý luận và tư tưởng, năm 1974 ông được tôn sùng là chủ tướng của tư tưởng của trào lưu lý luận kinh tế, chính trị xã hội tân tự do, được tặng giải thưởng Nôben. Cuối đời Hayek bị nặng tai và điếc tai trái còn Mác bị điếc tai phải nên người ta nói nửa đùa, nửa thật là Mác chỉ nghe được những gì từ phía tả còn Hayek thì chỉ nghe được những gì từ phía hữu.
Bản chất của lý luận Mác là dở dang, không hoàn chỉnh bởi vì con người của Mác mà sự sửa chữa đến nhanh hơn sự hình thành, chưa kịp hoàn thành luận điểm đã chữa rồi. Mác sống được 65 năm, thấy rõ lỗ hổng của mình mới chỉ chiếm lĩnh cuộc sống (vài nước ở Tây Âu), chưa hiểu gì về Mỹ, phương Đông và tiến bộ của khoa học công nghệ, đặc biệt không đề cập đến sở hữu trí tuệ.  
Nói tóm lại:  
Bài diễn văn của Tổng bí thư chỉ có 2 điểm sáng : Thứ nhất là thể hiện tình đoàn kết gắn bó thủy chung giữa 2 dân tộc anh em Việt Nam-Cuba. Thứ hai là khi kể tên vài nước XHCN, may mà ông không đề cập đến người anh em Triều Tiên! (“gia đình trị” điển hình)!. Còn nếu “mổ xẻ” tòan bộ nội dung thì đầy rẫy các điều bất cập, mù mờ!
Là người dân, dù bức xúc, nhưng tôi không thể viết tiếp về những điều mà bản thân mình cũng còn thấy “mù mờ”, huống chi là những người được tự gán cho cái mác là “nhân tài” lãnh đạo quốc gia:
“Nói những điều không biết
Viết những điều không hiểu
Sợ mất những điều không có”



Bộ máy biến lãnh đạo thành cái máy

 Bùi Văn Bồng
Tôi có người bạn quen nguyên là cán bộ cấp Vụ trưởng ở một cơ quan Trung ương. Ngày xưa, bố ông ta cũng nguyên là Vụ trưởng. Và nay đến con ông ta làm công tác nghiên cứu tổng hợp tại một cơ quan văn phòng bộ, nghe ông khoe rằng : “Cháu cũng đã được được đưa vào nguồn Vụ trưởng”. Tôi nói vui: “Thế là nhà ông tam đại vụ trưởng đồng đường rồi”. Ông ta cười hấc hấc.
Đã từ lâu, trong cơ chế của ta, từ Đảng đến chính quyền rồi các bộ, ngành, cơ quan từ cấp huyện, tỉnh, thành phố lên đến Trung ương đã hình thành bộ máy văn phòng, cơ quan nghiên cứu, tổng hợp, cơ quan, phòng, ban chuyên trách rất đầy đủ, hầu như không thiếu một góc nào. Vì muốn phình to cơ quan, tăng sự bề thế, lại có chỗ để đưa con em, người nhà, mối thân quen vào biên chế, người ta đề xuất đủ mọi lý do cần thiết thêm phòng này, ban nọ, bộ phận kia… Cứ theo bài ấy, nhiều năm, nhiều cơ quan, nhiều ngành chỉ có tăng biên chế, ít khi và khó mà giảm được. Từ đó, sinh ra một bộ máy cồng kềnh, số lượng vào biên chế nhà nước trong mảng hành chính sự vụ này ngày càng đông. Mà đó lại là những nơi được coi là “ngon ăn, béo bở”, là nơi gửi gắm con, cháu, họ hàng thân quen của các quan chức. Con cái dân thường dễ gì chen vào được? Quỹ lương dành cho “khối” này rất lớn, tăng chi tiêu công, ăn lạm, sém lẹm không ít vào ngân khố quốc gia. Mà bộ máy này lại thường sinh ra cồng kềnh, chồng chéo công việc, có khi “dẫm chân lên nhau”, hiệu quả thấp. Có những văn phòng bố trí đến 3 công vụ. Phải phân ra, người này quét nhà, người kia pha trà, người khác chỉ việc ngồi đọc báo, xem ti vi hoặc mở mạng chơi game, thường trực “cơ động”, chỉ khi cán bộ, lãnh đạo cần uống cà phê thì chạy ra phố mua, thế coi như cũng xong việc cả buổi. Thực ra, hô hào tinh giản biên chế từ lâu rồi, nhưng biên chế hành chính bao cấp ngày càng nhiều. Có ông than phiền:

- Tinh giản ư? Tinh gián ai? Cũng biết là chúng nó không được việc mấy, nhưng “trên” bắt phải nhét vào rồi, bắt phải kiếm việc, tìm chỗ, nói là cho nó có nơi làm, rồi cho nó cái chức danh, có đồng lương để sống, lại được ở Hà Nội. “Công thức 18 Đ” đặt ra những yêu cầu dù không muốn cũng phải lo cho chúng nó là: “Đều đã được đỡ đầu, đi đứng được đầy đủ, đừng để đói, đếch đuổi đi đâu được”.
Cái chuyện cồng kềnh biên chế, dựa hơi nhà nước, có khi học hành, bằng cấp cũng chưa đâu vào đâu, làm việc “ba chớp ba nháng” vẫn lên lương lên chức đàng hoàng, về hưu lại đủ chế độ giữa thành thị, âu cũng chẳng phải lỗi của ai, mà là lỗi của cơ chế. Đã nói đến cơ chế thì dù có bị phạm pháp, sai lầm gì chăng nữa thì cũng không ai lôi được bị can “cơ chế” ra tòa. Cơ chế do con người đẻ ra, nhưng nó không phải là con người cụ thể.
Điều đáng nói nhất là bộ máy quan liêu đã sinh ra những cán bộ quan liêu. “Trả lương rồi, giao việc thì phải làm, ăn cơm chúa múa tối ngày, chẳng lẽ đến tay tao!”- cái lý sự từ trong nếp quen tư duy như thế nhiều lắm.
Có những cán bộ đã lên bậc chuyên viên. Công việc chủ yếu là “chắp bút” cho lãnh đạo. Từ báo cáo, phát biểu cho đến thư trả lời, trao đổi chỗ này chỗ kia đều do chuyên viên, trợ lý làm hết. Ông chuyên viên nọ gắn cả đời từ khi lính lác đến cấp chuyên viên chỉ như vậy thôi, được cấp nhà gần cơ quan, ngay giữa trung tâm thành phố, từ nhà đến cơ quan gần có thể đi bộ được. Ông ta lại thiếu thực tế, chẳng hề biết địa phương, cơ sở là gì, chỉ loanh quanh hàng ngày với việc bàn giấy, sớm cắp ô đi, tối cắp về. Cứ cái điệp khúc đó mà đời cha truyền đời con, rồi đến đời cháu, không ra khỏi Hà Nội, trừ những chuyến thi thoảng về thăm quê hương bản quán hoặc đi du lịch, thăm thú riêng tư…
Có người nói với tôi: “Tại sao ông nào lên cái chức ấy phát biểu đều giống nhau?”. Thì đúng thôi, lãnh đạo nào lên thì vẫn dùng chuyên viên, cán bộ chuyên trách đó làm cái công đoạn “chắp bút” (chấp bút). “Chắp bút” đã thành nghề, viết bài cho lãnh đạo nhanh đến mức “siêu”. Nhưng, sở dĩ nhanh là vì có các bản lưu sẵn tiwf mấy chục năm rồi, mỗi loại có một ngăn riêng, bố cục, nội dung riêng. Đã có bài bản sẵn từ lâu năm, đã qua đến mấy đời lãnh đạo rồi, như một thứ ba-rem, công thức, chỉ cần đảo lên, đảo xuống, thay địa danh, ngày tháng, đưa vào mấy số liệu có chút mới hơn, lại thay phần thưa gửi ở bên trên, lời chào cuối bài cho phù hợp từng hội nghị, từng đối tượng người nghe, thế là coi như xong việc, đáp ứng yêu cầu của lãnh đạo, chẳng cần nhiều động não. Làm việc an nhàn, lương cao, con cháu được nhờ cả dây, cả chùm giữa Hà thành, đời mà được như thế là dư sức “ổn định và phát triển”.
Đảng ta từ nhiều năm qua đang tổ chức “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Hình ảnh Bác Hồ ngồi trước máy chữ, tay đặt lên vằng trán suy nghĩ, toát lên con người tự chủ lao động của Bác, nói và làm đúng tâm, đúng tầm của mình. Cái gì cũng tự Bác viết ra. Ở núi rừng căn cứ Việt Bắc có ”bàn đá chông chênh dịch sử Đảng…”, về Hà Nội tại nhà sàn và Phủ Chủ tịch trên bàn làm việc có máy chữ. Đọc bản thảo Di chúc của Bác để lại, mới thấy cách làm việc cẩn thận, chu đáo của Bác. Bản thảo viết xong, Bác tự sửa lại đến mấy lần. Một cán bộ cựu trào từng mấy chục năm làm việc ở Văn phòng Chủ tịch nước kể lại là ông Vũ Kỳ có lần nói: “Cái này Bác để cháu viết, rồi gửi đến Bác đọc”. Bác nói: “Bài tôi phát biểu thì tôi tự viết lấy. Để cho chú viết, là cái đầu chú nghĩ ra, đâu phải đầu của Bác? Mà nếu để chú viết, tôi cũng phải xem, phải sửa lại. Thế nên tiện nhất là tôi tự viết lấy”. Chưa nói đến chuyện gì lớn, chỉ riêng tác phong, cung cách làm việc của Bác Hồ, lãnh đạo ta có mấy ai học và làm được theo tấm gương của Người?
Ngược lại, cán bộ lãnh đạo ta bây giờ còn khá nhiều vị hầu như rất ít khi tự viết, tự soạn văn bản, soạn báo cáo, lời phát biểu, tự gửi thư trả lời cho chỗ này nơi kia. Đến như bài báo, thậm chí tập thơ cũng do người khác viết cho lãnh đạo đứng danh. Từ cán bộ xã, lên lãnh đạo huyện, lên tỉnh, rối lên bộ, ngành Trung ương, tất cả đều do các cán bộ, nhân viên văn phòng, trợ lý, thư ký viết cho hết, chỉ sẵn đọc, thế mà có khi đọc còn sai. Số liệu do người “chắp bút” tìm hiểu, tổng hợp và soạn sẵn, cứ thế mà đọc. Cho nên, đọc xong quên luôn. Khi cấp trên đến làm việc, lại gọi “bộ máy” lên cùng dự rồi nếu cần thì các phòng, ban giúp việc trực tiếp báo cáo.
Có lần, tôi hỏi một ông Bí thư tỉnh ủy cho địa chỉ Email để tôi gửi một tài liệu liên quan cho ông ta đọc. Ông ta nói: “Cứ gửi đến văn phòng, rồi văn phòng in ra cho tôi đọc, tôi đâu có biết “vi tính vi toán”, có biết “i-meo, i-mẻo” là cái gì đâu” (!?). Quan liêu từ đó mà sinh ra. Rồi lãnh đạo cũng sinh ra lười biếng, ỷ lại, chỉ tay năm ngón. Từ khi có điện thoại di động, các cán bộ lãnh đạo càng an nhàn, có việc gì, chỉ cần “phôn” là có người chạy đi lo ngay. Phải chăng do cơ chế mà phát sinh bộ máy cồng kềnh, rồi chính bộ máy tốn kém nhiều tiền nhà nước đó lại biến cán bộ lãnh đạo thành cái máy?
Từ thực trạng khối hành chính, văn phòng cơ quan khổng lồ, đông đảo, cồng kênh từ huyện lên tình, bộ, ngành Trung ương như thế, liệu có cần “tái cấu trúc”, tinh giản biên chế cho phù hợp và tiết kiệm hay không? Trước hết, cơ chế đó tự nó đã sinh ra một đội ngũ cán bộ chuyên trách, những chuyên viên đã quen với lối sống và làm việc theo kiểu hành chính, quan liêu, bao cấp. Họ chỉ biết “sống dựa, ăn theo, nói leo, mách lẻo, tìm cách trèo, báo cáo lươn lẹo”. Họ có nhiều chiêu thức và kinh nghiệm lấy lòng, chiều chuộng lãnh đạo, nịnh nọt, ton hót, khéo sống “gió chiều nào che chiều đó”, hoặc là “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”, miễn là được an phận thủ thường, hở ra là tìm cách tự tư tự lợi cho cá nhân, gia đình. Còn về lãnh đạo được đặt trong cơ chế, bộ máy đã thành khuôn đúc sẵn ấy thì cũng bị biến thành cái máy. Người lãnh đạo hoạt động thiếu tự chủ và ít phát huy nội lực bản thân, được an nhàn là nhờ chức danh, chức trách mà được đứng lên trên thiên hạ, được sống và làm việc bằng cái đầu của người khác: “Cái đầu văn phòng, cái chân xe công, làm ăn lòng vòng, cái mông trợ lý, chữ ký qua loa”. Thực tế, có những lãnh đạo trình độ kiến thức còn yếu, cái bằng náo đó chỉ là sự “hợp thức hóa”, chẳng bằng ai. Nhưng ông lại được quyền sống bằng những cái đầu người khác, những chuyên gia được đào tạo bài bản, những trợ lý đầy kinh nghiệm. Những cán bộ, nhân viên, trợ lý đều học hành chính quy cả, ông đâu còn sợ gì. Đi đâu có xe công ngon lành. Làm giàu thì phải ký cót dự án, vốn liếng lòng vòng. Cái ghế ở cơ quan đã có thằng trợ lý thay ông giải quyết các công việc, có gì cần thì báo cáo sếp.
Bao giờ cơ chế, và chế độ ta mới thực sự tinh giản được cồng kềnh bộ máy? Bao giờ mới bớt được đội ngũ đông đảo ăn lương nhà nước rồi chỉ việc ngồi chơi xơi nước? Bao giờ cán bộ, lãnh đạo ta không còn điều kiện và cơ hội “sống bằng cái đầu người khác”? Người lãnh đạo phải tự biết chủ động, tự giác và thường xuyên vận động suy nghĩ, phải vắt óc, phải biết có sự mất công vì công việc, không còn là cái máy đã được cơ chế cài sằn phần mềm, được cơ chế lập trình hóa thay cho năng lực thực chất, hoặc như cái máy liên tục được đổ đầy nhiên liệu quan liêu! Vẫn biết rằng bất kỳ một thể chế chính trị nào cũng cần phải có nhiều cơ quan chuyên môn, cá nhân chuyên trách, chuyên ngành và bộ máy phục vụ, giúp việc. Điều đặt ra hiện này là rất cần rà soát lại bộ máy các cơ quan Đảng, nhà nước, ngành ở mọi cấp từ Trung ương đến địa phương. Nếu chưa hợp lý, phát hiện những bộ phận, chức danh không cần thiết sinh ra quá cồng kềnh, lãng phí thì phải tổ chức lại, tinh giản gọn nhẹ, đem lại chất lượng, hiệu quả cao. Những cán bộ còn kém về năng lực và nhiệt tình, thiếu tự giác, ít sáng tạo thực thi nhiệm vụ, buông lơi chức trách, bỏ bê nhiệm vụ, cần cho nghỉ để thay thế người khác có phẩm chất, năng lực tốt hơn, không nên chờ “hết nhiệm kỳ” mới chuyển đổi, sắp xếp, bố trí nhân sự như nếp quen gây trì trệ lâu nay.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét