Ở huyện Lâm Thao tỉnh Phú Thọ , cách Đền Hùng khoảng 5km về phía đông nam bên bờ tả ngạn có một vùng quê mang tên Tứ Xã .
Xã Tứ Xã có 32 xóm trong đó xóm Trám và xóm Bùi có đầu tiên nằm trong vùng di tích đồ đá cũ của người Việt cổ như Gò Mun, Đồng Đậu . Tứ Xã xưa kia thuộc vùng đồng trũng ngập nước, lúa chỉ làm một vụ, quanh năm sinh sống bằng nghề vó bè, cá mú.
Tại nơi đây có một ngôi miếu cổ thờ linh vật ẩn mình bên ngòi nước trong khu rừng Trám, cứ 2 hoặc 4 năm một lần vào đầu xuân, nhân dân mở lễ hội diễn nhiều tích trò, nên gọi là miếu Trò, vì miếu Trò nằm trong rừng Trám nên gọi là miếu Trò Trám (nay rừng Trám không còn).
Tương truyền đất nơi đây có truyền thống hiếu học, có người đỗ đạt cao như Nguyễn Quang Thành - đỗ tiến sĩ lúc 24 tuổi (năm 1680 )…..Chánh tổng Nguyễn Quang Hoà biệt danh “Tổng Cóc’’ chồng thi sĩ họ Hồ và chính nhờ gắn bó với lời ca Nõ Nường của lễ hội Trò Trám, nên nữ sĩ Hồ Xuân Hương, mới có được những bài thơ kiệt tác để lại cho đời. “Trò Trám’’ là tên gọi của địa phương, giới nghiên cứu gọi lễ hội “phồn thực’’, tên tục là lễ hội “Nõ Nường’’- tức lễ hội “vòng đời” - là loại hình sinh hoạt cộng đồng cổ xưa nhất còn truyền kỳ lại đến ngày nay; Đặc điểm của lễ hội “vòng đời’’- Trò Trám là “lễ mật’’, “tắt đèn” xướng diễn trò “linh tinh tình phộc” vào giờ “lành” nửa đêm (giờ tý). Động thái “linh tinh tình phộc” và “chày cối” là hiện tượng “tục hèm” trừ đuổi tà ma triệt tiêu hiểm hoạ, cho vật thịnh dân an xóm làng trù phú “khuyển kệ minh kê”. Mặt khác “linh tinh tình phộc’’ đó là phút “ khởi nguyên’’ sự sống cho một vòng đời, nên gọi là lễ “cầu đinh”.
Phần lễ
Như trên đã nói : Miếu Trò thờ vật linh - sinh thực, tên tục gọi là bà “ Đụ Đị’’ (Dụ Dị) tên nôm Nõ Nường làm vật “hèm’’ để trừ tà, đuổi ma, triệt tiêu hiểm họa tai ương, cầu yên cầu phúc, cầu lộc cầu tài.
Lễ hội bắt đầu hôm ngày 11.Đầu tiên là lễ cáo tế dâng sớ có lễ hát cúng đệm “đàn giằng xay’’ do cụ Từ thể hiện, đồng thời có lễ chầu chực . Lễ chầu chực là ngồi ngóng đợi giờ lành gồm các bô lão và do chức sắc phân làm hai nhóm: nhóm chức sắc cao thì ngồi cùng cụ Từ hát thờ ở miếu, nhóm chức sắc thấp thì ngồi ở điếm Trám - cách miếu trò khoảng 200m (có cả đôi trò đã hoá trang , đến giờ thì một bô lão dẫn vào miếu ).
Nghe tiếng gà gáy là nửa đêm, đến giờ lành (giờ tý) bước vào giờ chính lễ “Lễ mật’’. Trước linh vị thần miếu - thần Nõ Nường, “ đôi trò’’ nam thanh, nữ tú đứng sau chủ tế, hướng mặt vào nhau, sẵn sàng đợi lệnh diễn trò.
Chủ tế, sau khi khấn xong bài văn tế (…Cảm tất thông, Cầu tất ứng. Bảo vật hộ dân ,ức niên trường tại .Vạn cổ như tân… tất cả có 21 câu, nội dung ngợi ca vật “hèm’’ Nõ Nường: Anh linh tuấn kiệt, Băng sương cốt cách, Kim ngọc tinh thần… ) Sau lời thần chú - cầu xin, gieo quẻ âm dương và lạy xong ba lạy thì bước lên cạnh bàn thờ, mở hòm lấy vật “hèm’’ (ngày trước vật hèm là cái mo nang và dùi gỗ vông, xong việc thì thả xuống hồ ngâm lấy nước tưới ruộng, để diệt trừ sâu rầy cho mùa màng cây trái xum xuê .
Nay làm bằng gỗ, sơn đỏ, xong việc là cất vào hòm đặt trong tủ, để trên gác xép sau bàn thờ, còn gọi là bàn thờ thượng, có cầu thang, ) Nõ trao cho nam, Nường trao cho nữ, rồi bước ngang sang phải (bàn thờ) ba bước, quay lại, chếch hướng về đôi trò, miệng hô: “linh tinh tình phộc’’ đồng thời hai tay khoát lên tạo thanh hình chữ “V’’ trước trán - đèn tắt, tuần tự hô ba lần.
Theo lệnh tuần tự của mỗi lần hô, đôi trò vừa múa (đứng tại chỗ, hai tay cầm vật “hèm’’ đưa sang đưa về) miệng hát: Bên kia có nứng cùng chăng. Bên này lủng lẳng như giằng cối xay Hát xong hai câu này thì nữ cầm cái Nường đưa lên, nam cầm Nõ “phộc’’ vào và phải làm ba lần như thế. Trong đêm tối, chủ tế nghe “cạch’’ đủ ba tiếng đèn sáng lại. Phút ấy gọi là phút “thiêng’’, “dập’’ chiêng trống để mừng và kính cáo với thần linh, thiên địa biết “lễ mật tắt đèn’’ đã thành công.
Sau đó chủ tế dẫn đầu “đám trò’’ chạy quanh miếu ba vòng theo ngược chiều kim đồng hồ, theo sau là dân làng: vừa chạy vừa la hét và gõ dùi vào mẹt để đuổi ma quỷ trừ hiểm họa cả năm cho dân làng, cùng mùa màng cây trái và gia súc...
Khi nghe hiệu chiêng trống “dập’’ và tiếng la hét ở ngoài miếu thì số người ở nhà trong phường cũng đồng loạt “gõ’’ dùi vào mẹt hoặc dùng chày “giã’’ vào cối và la hét theo để đuổi ma quỷ. Sau đó những đôi vợ chồng cũng phải thực hiện lễ thức “tình phộc’’ và những đôi nam nữ cùng dân làng đang ở quanh rừng Trám ngoài miếu, cũng phải thực hiện lễ thức “tình phộc’’ bổ sung “bồi’’ thêm, và ngày mai trong hội hát trình nghề Tứ dân chi nghiệp, cái nọ “phộc’’ vào cái kia và lời ca ẩn ngữ Nõ Nường lại “bồi’’ thêm lần nữa “quá tam ba bận’’. Tức là “tôi luyện’’ cho vật “hèm’’ đầy đủ linh nghiệm, thần hộ mệnh của toàn phường.
Toàn bộ trò diễn ở đây đều phải tuân theo chức năng hoạt động của Nõ Nường “ linh tinh tình phộc’’ - tức là “Đụ Đị’’. “Đụ Đị’’ là ngôn từ thuộc tầng ngôn ngữ cổ, ngữ nghĩa của nó hiện nay ở miền Trung đang còn hiểu: “Đụ’’ vừa là hành động, vừa là hình vật - cái Nõ, còn “đị’’ là hình ba góc - cái Nường.
Dân ca Miền Nam có câu: " Bông xanh bông trắng Rồi lại vàng bông Ơ “Nường’’ ơi !
Tục “Tình phộc’’này đến đầu thế kỷ XX đã không còn diễn ra nữa nhưng theo phong tục ngoài rừng trám các đôi trai gái và dân làng, cũng thực hiện lễ thức “ tình phộc’’ và nữ phải giữ một vật của nam để làm tin như khăn đội đầu. Cô nào có chửa trong dịp đó là lễ “hèm’’ của làng thành công, đem lại điều may mắn cả năm cho gia đình và toàn phường. Phường sẽ đứng ra lo liệu tổ chức lễ cưới cho họ và không phải nộp khoản tiền “cheo’’.
Đứa con sinh ra trong dịp “lễ mật’’ này là của quí, vật cưng của gia đình và toàn phường. Ngoài ra, cô gái có chửa ấy, nếu từ chối lấy anh gặp tối qua, mà muốn lấy một anh khác thì dân làng cũng vận động người con trai đó và anh ta cũng rất vui vẻ tự nguyện. Đồng thời những bà mà có chửa trong đêm đó thì gia đình càng phấn khởi với câu châm ngôn: Cá ao ai về ao ta, ta được.
Tiến trình của hội gồm “ Rước lúa “thần’’ trình trò Tữ dân, lời ca Nõ Nường. Vào sáng 12 diễn ra lễ rước lúa. Bó lúa gồm những bông to mẩy hạt, được chọn từ mùa trước và cất cẩn thận ở điếm Trám.
Lúc này lúa được đặt lên ngai kiệu, nơi vốn là vị trí linh vị của các thần. Bó lúa trở thành Thần lúa, tinh linh của lúa hoặc Mẹ lúa. Đám rước đi cùng kiệu là đoàn bát âm, các vị bô lão mặc lễ phục phường Trám, các cụ bà Phật tử và nhân dân. Về ý nghĩa, rước lúa là sự tiếp nối nội dung biểu đạt ý nguyện cầu được mùa, bông to hạt mẩy, phong đăng hòa cốc; không bằng ngôn ngữ, không bằng thao tác, mà bằng nghi thức rước.
Là “Lễ hội Nõ Nường’’ do đó toàn bộ tích trò diễn ra ở đây đều tuân theo chức năng hoạt động của Nõ Nường “linh tinh tình phộc’’. Vì thế, nếu lễ hội tại miếu thờ cụ Tổ nghề mộc, thì việc cưa, đục, đó là công việc của nghề thợ mộc, thì ở lễ hội Nõ Nường thì cái cưa “xẻ’’ gỗ, cái đục “ đục’’ gỗ là tượng trưng cho Nõ “ phộc’’ vào Nường; Kẻ Sĩ chiếc bút “quyệt’’ vào nghiên mực, Nông cái cày “cắm’’ xuống đất, cần câu lưỡi “móc’’ vào mồm cá... và lời ca của nhóm “tứ dân chi nghiệp’’ (Sĩ, Nông, Công, Thương) cũng đều ám chỉ việc Nõ “ phộc’’ vào Nường.
Lời ca có trên 350 câu thơ Lục bát không kể lời ứng tác tức thì. Xin trích lời ca của một số vai diễn sau đây:
Đàn ông tậu ruộng ba bờ
Chớ để kẻ khác mang lờ đến đơm
Lời ca của người thợ cày:
Nhà ta vui cấy, vui cầy
Làm ăn vất vả tối ngày không thôi
Mong sao như đũa có đôi
Tháng năm năm việc, tháng mười mười công
Lời ca của người thợ cấy:
Người ta đi cấy lấy công
Tôi nay đi cấy lấy ông chủ nhà
Đi cấy thì gốc chổng lên
Ngọn thời cắm xuống mới nên mùa màng
Lúc này lúa được đặt lên ngai kiệu, nơi vốn là vị trí linh vị của các thần. Bó lúa trở thành Thần lúa, tinh linh của lúa hoặc Mẹ lúa. Đám rước đi cùng kiệu là đoàn bát âm, các vị bô lão mặc lễ phục phường Trám, các cụ bà Phật tử và nhân dân. Về ý nghĩa, rước lúa là sự tiếp nối nội dung biểu đạt ý nguyện cầu được mùa, bông to hạt mẩy, phong đăng hòa cốc; không bằng ngôn ngữ, không bằng thao tác, mà bằng nghi thức rước.
Là “Lễ hội Nõ Nường’’ do đó toàn bộ tích trò diễn ra ở đây đều tuân theo chức năng hoạt động của Nõ Nường “linh tinh tình phộc’’. Vì thế, nếu lễ hội tại miếu thờ cụ Tổ nghề mộc, thì việc cưa, đục, đó là công việc của nghề thợ mộc, thì ở lễ hội Nõ Nường thì cái cưa “xẻ’’ gỗ, cái đục “ đục’’ gỗ là tượng trưng cho Nõ “ phộc’’ vào Nường; Kẻ Sĩ chiếc bút “quyệt’’ vào nghiên mực, Nông cái cày “cắm’’ xuống đất, cần câu lưỡi “móc’’ vào mồm cá... và lời ca của nhóm “tứ dân chi nghiệp’’ (Sĩ, Nông, Công, Thương) cũng đều ám chỉ việc Nõ “ phộc’’ vào Nường.
Lời ca có trên 350 câu thơ Lục bát không kể lời ứng tác tức thì. Xin trích lời ca của một số vai diễn sau đây:
Đàn ông tậu ruộng ba bờ
Chớ để kẻ khác mang lờ đến đơm
Lời ca của người thợ cày:
Nhà ta vui cấy, vui cầy
Làm ăn vất vả tối ngày không thôi
Mong sao như đũa có đôi
Tháng năm năm việc, tháng mười mười công
Lời ca của người thợ cấy:
Người ta đi cấy lấy công
Tôi nay đi cấy lấy ông chủ nhà
Đi cấy thì gốc chổng lên
Ngọn thời cắm xuống mới nên mùa màng
Lời ca của cô mua bán “xuân”:
Còn xuân thì mua xuân đi,
Nay lần mai lữa còn gì là xuân
Lời ca của anh đi câu:
Cành câu trúc anh đúc lưỡi câu vàng
Anh tra mồi nguộc anh sang câu hồ
Người ta câu diếc câu rô
Anh đây câu lấy một cô không chồng
Có chồng thì nhả mồi ra
Không chồng thì cắn, thì nuốt, thì tha lấy mồi
Lời hát của anh cung bông :
Mặc ai căng lưới ngọn bè
Anh người phường Trám làm nghề cung bông
Cô nào bông cán đã xong
Muốn đi kịp chợ đón cung anh vào
Lời của chị kéo sợi:
Xin đừng quản thấp lo cao
Bông em đã nỏ anh vào mà cung
Sợi lôi ra bằng cổ chày
Phường chài đón hỏi mua dây kéo thuyền
Lời ca của anh thợ xẻ:
Người ta xẻ gỗ trên ngàn
Anh đây cưa lấy một nàng đương tơ
Em tài bắt chệch sớm trưa
Anh thì giỏi xẻ khéo cưa cùng phường
Lời ca của thầy đồ và học trò:
Học trò đi học sách kinh
Tay cầm quản bút “quyệt” tình nghiên đây
Học trò đi học chữ thầy
Học nhồi học nhét bụng đầy văn chương.
Lễ hội Nõ Nường là lễ hội ngợi ca về sự cường tráng và hoạt động “linh tinh tình phộc” của Nõ Nường “vật hèm”: Nõ to và dài như “giằng cối xay” còn Nường thì rộng và sâu như “cối xay lúa’’đó là biểu tượng. Ở đây không còn quan niệm “dâm” và “tục” nữa.
Lời ca của nhóm hề pha trò:
- Gặp đây anh mới hỏi nàng
Cái gì lủng lẳng một gang trong quần
- Chàng hỏi thì thiếp thưa rằng
Cái đeo lủng lẳng là “giằng cối xay”.
- Ước gì em hoá ra trâu
Anh hoá ra chạc xỏ nhau cả ngày.
- Ước gì em hoá lưỡi cày
Anh hoá thành bắp lắp ngay bây giờ
- Bà già như ruộng đỉnh gò
Đang hạng con gái như kho ruộng mềm.
Lễ hội kéo dài một đêm và một ngày: bắt đầu vào tối ngày 11 và kết thúc vào chiều ngày 12 tháng giêng âm lịch với đặc điểm của lễ là : Linh thiêng huyền bí thần chú vật hèm .
Đặc điểm của hội: Trò -vè - hí tiếu - trêu - ghẹo - múa vui Lễ hội Nõ Nường Trò Trám thuộc dòng lễ hội tục hèm, mang đậm đà bản sắc văn hoá của người Việt cổ. Nó được ra đời rất sớm, từ thời dân tộc ta mới hình thành tư tưởng. Đến thời đại văn minh Đông Sơn, dòng lễ hội vòng đời này được hoàn thiện về ý nghiã và nghệ thuật, được ghi lại thành hoa văn trên mặt trống đồng Ngọc Lũ và lan toả, truyền kỳ trong văn hoá đân tộc , việc tìm hiểu và bảo tồn dòng lễ hội này đó là điều cần thiết trong hội nhập quốc tế của đất nước ta.
ST & BS
Còn xuân thì mua xuân đi,
Nay lần mai lữa còn gì là xuân
Lời ca của anh đi câu:
Cành câu trúc anh đúc lưỡi câu vàng
Anh tra mồi nguộc anh sang câu hồ
Người ta câu diếc câu rô
Anh đây câu lấy một cô không chồng
Có chồng thì nhả mồi ra
Không chồng thì cắn, thì nuốt, thì tha lấy mồi
Lời hát của anh cung bông :
Mặc ai căng lưới ngọn bè
Anh người phường Trám làm nghề cung bông
Cô nào bông cán đã xong
Muốn đi kịp chợ đón cung anh vào
Lời của chị kéo sợi:
Xin đừng quản thấp lo cao
Bông em đã nỏ anh vào mà cung
Sợi lôi ra bằng cổ chày
Phường chài đón hỏi mua dây kéo thuyền
Lời ca của anh thợ xẻ:
Người ta xẻ gỗ trên ngàn
Anh đây cưa lấy một nàng đương tơ
Em tài bắt chệch sớm trưa
Anh thì giỏi xẻ khéo cưa cùng phường
Lời ca của thầy đồ và học trò:
Học trò đi học sách kinh
Tay cầm quản bút “quyệt” tình nghiên đây
Học trò đi học chữ thầy
Học nhồi học nhét bụng đầy văn chương.
Lễ hội Nõ Nường là lễ hội ngợi ca về sự cường tráng và hoạt động “linh tinh tình phộc” của Nõ Nường “vật hèm”: Nõ to và dài như “giằng cối xay” còn Nường thì rộng và sâu như “cối xay lúa’’đó là biểu tượng. Ở đây không còn quan niệm “dâm” và “tục” nữa.
Lời ca của nhóm hề pha trò:
- Gặp đây anh mới hỏi nàng
Cái gì lủng lẳng một gang trong quần
- Chàng hỏi thì thiếp thưa rằng
Cái đeo lủng lẳng là “giằng cối xay”.
- Ước gì em hoá ra trâu
Anh hoá ra chạc xỏ nhau cả ngày.
- Ước gì em hoá lưỡi cày
Anh hoá thành bắp lắp ngay bây giờ
- Bà già như ruộng đỉnh gò
Đang hạng con gái như kho ruộng mềm.
Lễ hội kéo dài một đêm và một ngày: bắt đầu vào tối ngày 11 và kết thúc vào chiều ngày 12 tháng giêng âm lịch với đặc điểm của lễ là : Linh thiêng huyền bí thần chú vật hèm .
Đặc điểm của hội: Trò -vè - hí tiếu - trêu - ghẹo - múa vui Lễ hội Nõ Nường Trò Trám thuộc dòng lễ hội tục hèm, mang đậm đà bản sắc văn hoá của người Việt cổ. Nó được ra đời rất sớm, từ thời dân tộc ta mới hình thành tư tưởng. Đến thời đại văn minh Đông Sơn, dòng lễ hội vòng đời này được hoàn thiện về ý nghiã và nghệ thuật, được ghi lại thành hoa văn trên mặt trống đồng Ngọc Lũ và lan toả, truyền kỳ trong văn hoá đân tộc , việc tìm hiểu và bảo tồn dòng lễ hội này đó là điều cần thiết trong hội nhập quốc tế của đất nước ta.
ST & BS
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét