Ngày 12 tháng 9, văn phòng chính phủ Việt Nam đã có “công văn hỏa tốc số 7169/VPCP-NC thông báo ý kiến của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng chỉ đạo các cơ quan chức năng điều tra, xử lý nghiêm việc đăng tải nội dung chống đảng và nhà nước”.
Các trang báo mạng cụ thể được nêu tên là Dân Làm Báo, Quan Làm Báo, Biển Ðông...
Văn bản cũng cấm “Các bộ, ngành, các địa phương lãnh đạo cán bộ, công chức, viên chức không xem, không sử dụng, loan truyền và phổ biến các thông tin đăng tải trên các mạng phản động.”
Phản ứng chung của dư luận xung quanh văn bản 7169 ra sao?
Trước hết, đối với những trang mạng bị nêu tên, vô hình trung ông Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng và cái văn phòng chính phủ của ông đã PR ngược cho những trang mạng này, khiến số lượng người truy cập càng tăng lên.
Ðối với dư luận quốc tế và trong nước, hành động nhằm bịt miệng những trang blog nói lên tiếng nói trung thực của người dân cũng như cấm người dân không được đọc những thông tin đối lập, khiến ông thủ tướng càng thêm mất điểm trong mắt mọi người.
Không ai ngạc nhiên khi trong văn bản nêu đích danh quan làm báo là trang blog tập trung chĩa mũi dùi đánh ông thủ tướng nhiều nhất.
Nhưng việc xếp chung Dân Làm Báo, Quan Làm Báo với Biển Ðông-một trang blog khá “hiền lành”, chỉ đề cập đến những vấn đề đang xảy ra trên biển Ðông, âm mưu bành trướng của Trung Quốc, và việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ lãnh hải, đã khiến nhiều người thắc mắc. Phải chăng điều này đã làm lộ ra rằng ông thủ tướng cũng là một người thân Trung Quốc, không muốn ai động chạm đến Trung Quốc?
Nhớ lại khi ông Nguyễn Tấn Dũng mới nhậm chức, nhiều người đã hy vọng rằng ông Dũng vốn là người miền Nam, còn tương đối trẻ, sẽ có tinh thần cấp tiến hơn.
Nhưng chẳng bao lâu, ông thủ tướng đã tự bộc lộ mình là một kẻ độc tài, chuyên chế với hàng loạt nghị định chà đạp lên mọi công ước quốc tế về quyền tự do dân chủ của con người, chà đạp lên cả Hiến pháp Việt Nam:
- Nghị định 11 và 12/2008 cấm công nhân không được đình công.
- Quyết định số 97/2009/QÐ-TTg “cấm phản biện” đã bị những nhà trí thức hàng đầu trong Viện Nghiên Cứu Phát Triển IDS chỉ trích là “Không phù hợp với thực tế khách quan của đời sống”, “Phản khoa học, phản tiến bộ, phản dân chủ”. Ðồng thời tuyên bố tự giải thể viện để phản đối.
- Nghị định số 136/2006/NÐ-CP cấm khiếu nại tập thể-đã bị Tiến Sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ, người đã bị kết án 7 năm tù trong phiên tòa ngày 4 tháng 4 năm 2011, khởi kiện vì đã ban hành một nghị định trái Hiến pháp và pháp luật.
- Nghị định 02/2011/NÐ-CP về kiểm soát báo chí và lĩnh vực xuất bản, nhằm tăng thêm quyền hạn kiểm duyệt của chính phủ đối với người làm báo trong nước, v.v. Có nghĩa là, ông Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng đã bịt miệng từ công nhân, nông dân, trí thức, các nhà khoa học cho tới báo chí!
- Và bây giờ, với văn bản số 7169/VPCP-NC, ông Nguyễn Tấn Dũng lại tìm cách bịt miệng mọi thông tin ngoài luồng và bịt mắt cả người dân khi cấm đọc những thông tin này.
Dưới thời ông Dũng, quyền tự do ngôn luận, báo chí, tự do tôn giáo càng bị siết chặt. Hàng trăm người bất đồng chính kiến, nhà hoạt động tôn giáo, blogger... bị sách nhiễu, bị tống vào tù với những bản án nặng nề, phi lý nhất.
Nổi bật là vụ các blogger CLBNBTD bị giam giữ dài hạn không đưa ra xét xử, vụ án của nhóm Lê Công Ðịnh-Trần Huỳnh Duy Thức, Tiến Sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ, Linh Mục Nguyễn Văn Lý, Mục Sư Nguyễn Công Chính hay vụ 17 thanh niên Công Giáo bị bắt giam...
Bản án dành cho doanh nhân Trần Huỳnh Duy Thức hay Tiến Sĩ Luật Cù Huy Hà Vụ theo sự nhận định của nhiều người, là có tính chất trả thù cá nhân. Vì những bài viết ký tên Trần Ðông Chấn của doanh nhân Trần Huỳnh Duy Thức đã đánh vào năng lực điều hành quản lý kinh tế quá kém cỏi của ông thủ tướng. Còn Tiến Sĩ Cù Huy Hà Vũ thì phạm tội “dám cả gan 2 lần kiện thủ tướng”.
Dưới thời ông Dũng, chế độ công an trị càng trở nên sắt máu. Công an, vốn là con cưng của chế độ, ngày càng hung hãn lộng hành, với hàng chục vụ bạo hành người dân tới chết khi chỉ mới trong giai đoạn đưa về đồn để điều tra, xét hỏi.
Nhìn vào tất cả những điều đó, để thấy ông Nguyễn Tấn Dũng không thể là một người có tinh thần cấp tiến, cải cách.
So với các đời thủ tướng trước, ông Nguyễn Tấn Dũng là người có nhiều quyền lực nhất, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế với sự thành lập của hàng loạt tập đoàn kinh tế quốc doanh là sân sau của thủ tướng. Ông Dũng cũng “nổi bật” bởi thành tích tham nhũng và khả năng điều hành quản lý kinh tế tệ hại.
Nhờ vào “tài năng” của ông Dũng, nền kinh tế Việt Nam cực kỳ bất ổn, lạm phát phi mã, đồng tiền liên tục bị mất giá, đời sống người dân vô cùng khó khăn, nợ nước ngoài tăng nhanh. Hàng loạt vụ làm ăn thua lỗ, vỡ nợ, phá sản của các tập đoàn kinh tế quốc doanh mà điển hình là vụ Vinashin, Vinalines đã “thổi” bay hàng chục nghìn tỷ đồng Việt Nam, tương đương hàng tỷ đô la Mỹ.
Chưa kể, nhiều “ông lớn” khác như tập đoàn điện lực, dầu khí, xăng dầu, Sông Ðà... cũng đang thua lỗ hoặc thất thoát rất nhiều tiền của. Ngành ngân hàng thì đang khủng hoảng vì nợ xấu...
Dư luận từ trước đến nay, không biết dựa vào đâu, thường cho rằng trong nội bộ đảng CSVN có hai ba phe, phe ông Tổng Trọng bị coi là thân Tàu, còn phe ông Dũng được cho là hướng về phương Tây hơn.
Trang Anh Ba Sàm nhận xét:
“Ngược thời gian, ngay từ khi thủ tướng nhậm chức, cho tới nay, không ít lần ông thể hiện là mình không thân Tàu, mà hướng Tây nhiều hơn, dù đằng sau đó là cái gì, có mấy ai tin hay không.... Vậy mà, đùng một cái, hai chữ “biển Ðông” lại lù lù trong cái văn bản “chỉ đạo”, như thể làm cho công phu 5-6 năm trời như vậy bỗng một phút thành công dã tràng, ngay giữa thời khắc sinh tử này...
Nào là chưa sang Trung Quốc ngay, mà là đi vài nước, trong đó có Nhật. Quyết định ‘dân sự hóa nghĩa trang Biên Hòa’ (rồi không thấy gì nữa), tuyên bố ‘dẹp’ doanh nghiệp công an, quân đội (sau cũng thấy im), Thiền Sư Thích Nhất Hạnh được về hành đạo, lập đàn giải oan chung cho tất cả những người đã khuất vì chiến tranh, không kể chính kiến (nhưng rồi lại xảy ra vụ Tu viện Bát Nhã đến kinh hoàng)... cho tới cả chuyện riêng gia đình-con gái kết hôn với một Việt kiều Mỹ, cha lại là người của VNCH.
... Một thời gian dài sau thì ‘bùng nổ’ khá ngoạn mục cú trả lời chất vấn trước Quốc Hội về biển Ðông, đề nghị ra Luật Biểu Tình, (hé lộ tin) chính thủ tướng ra lệnh thả Bùi Hằng...
Còn cả tin đồn thổi cũng không ít về tư tưởng không thân Tàu và muốn sửa Ðiều 4 Hiến pháp của thủ tướng.”
Thực tế ngày càng cho thấy việc nhận định phe nào thân Tàu/bảo thủ, phe nào hướng về phương Tây/cấp tiến, hoàn toàn chẳng có cơ sở nào chắc chắn.
Chẳng hạn như ông Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, mặc dù là nhân vật lãnh đạo cao nhất của nhà nước cộng sản chính thức lên tiếng trước Quốc Hội về vụ Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa. Nhưng ngoài những lời nói này ra, ông Dũng cũng như những ông lãnh đạo khác của Việt Nam chẳng hề có bất cứ hành động mạnh mẽ nào khi Trung Quốc ngày càng lộng hành, lấn lướt Việt Nam trên biển Ðông.
Khác hẳn với tổng thống Philippines trong hoàn cảnh tương tự.
Dư luận cũng chưa quên việc ông Nguyễn Tấn Dũng, cùng với ông Nông Ðức Mạnh trước đó, ra sức ủng hộ dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên ký kết với Trung Quốc, bất chấp sự phản đối của đông đảo các tầng lớp nhân dân.
Việt Nam dưới thời ông Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng và Trương Tấn Sang tiếp tục lún sâu vào trong quỹ đạo của Trung Quốc, từ chính trị, ngoại giao, cho đến kinh tế.
Việt Nam và Trung Quốc tiếp tục cam kết giữ vững “hòa bình và ổn định”, tiếp tục tiến trình đàm phán song phương về những mắc mứu trên biển Ðông, không để cho các thế lực thù địch phá hoại chia rẽ tình hữu nghị Việt Trung, v.v và v.v.
Như vậy, cho dù có thể đấu đá nhau, nhưng những nhà lãnh đạo đảng và nhà nước CSVN vẫn giống nhau trong việc thẳng tay đàn áp nhân dân và nhịn nhục trước kẻ xâm lược, cũng như trong sự chọn lựa thà mất nước còn hơn mất đảng!
Nguồn : SONG CHI
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét