Uỷ Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa LHQ [từ đây viết là Ủy Ban=Commission] kết thúc khoá họp 24 về thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý ở trụ sở LHQ, New York, vào ngày 11/12/2009. Thông Cáo rất dài của Ủy Ban đã được phổ biến trên trang nhà “UNCLOS” và người viết bài này xin tóm lược một số điều cần biết và liên quan tới VN dưới đây. [1]
1. Ủy Ban cho biết đã nhận được 35 hồ sơ mới cho khóa họp 24, từ 10/8/2009 đến 11/9/2009; trong số này có 2 hồ sơ của Hà Nội. Tuy là khóa họp 24 nhưng là khóa họp đầu tiên dài nhất của Uỷ Ban về thềm lục địa mở rộng sau hạn kỳ nộp đơn 10 năm, ngày chót là 13/5/2009. Vì số lượng hồ sơ quá nhiều nên Ủy Ban đã phải họp thêm 2 lần, mỗi lần 1 tuần lễ vào đầu tháng 11 và 12/2009. Tuy vậy, Ủy Ban vẫn chưa giải quyết được gì về 35 hồ sơ mới này.
Ủy Ban đã dành gần hết khóa họp để giải quyết 5 hồ sơ cũ [của Pháp, Barbados, Anh và North Ireland, Indonesia, Nhật] tồn đọng từ các khóa họp cũ. Dù cả 5 hồ sơ này đều đã được các Tiểu Ban [Sub-Commission] thành lập bởi các khóa họp cũ xem xét và đề nghị khuyến cáo, Ủy Ban chỉ giải quyết dứt điểm được 1 hồ sơ của Pháp, nộp từ 2 năm trước. Bốn hồ sơ cũ còn lại, Ủy Ban có giải quyết được thì sớm nhất cũng cuối năm 2010 hay 2011.
Ủy Ban đã nghe đại-diện 18 nước trình bầy về hồ sơ mở rộng thềm lục địa và VN là nước duy nhất trong số 18 nước này đã nhờ chính chuyên viên của Ủy Ban Thềm Lục Địa giúp soạn thảo hồ sơ. Ngày 27/8/2009, đại diện Hà Nội trình bầy trước Uỷ Ban về hồ sơ nộp ngày 6/5/2009 liên quan tới Nam Biển Đông, trong đó có Trường Sa và ngày 28/8/2009 trình bầy về hồ sơ ngày 7/5/2009 liên quan tới Bắc Biển Đông, trong đó có Hoàng Sa và Vịnh Bắc Việt.
2. Về Thủ Tục Cứu Xét, muốn mở rộng thềm lục địa ngoài 200 hải lý, nước ven biển phải nộp hồ sơ cho Ủy Ban. Hồ sơ gồm bản đồ với toạ độ rõ ràng và cách tính để qui định đường ranh thềm lục địa ngoài 200 hải lý theo qui định của Luật Biển LHQ. Tổng Thư Ký LHQ phải thông báo bằng văn bản cho các nước hội viên Luật Biển khi nhận hồ sơ và phổ biến văn bản này trên trang nhà LHQ.
Để giải quyết hồ sơ, Ủy Ban phải chỉ định Tiểu Ban gồm 7 người để xem xét. Tiểu Ban họp riêng khi xét hồ sơ, có thể yêu cầu nước liên hệ cung cấp thêm tài liệu hay thay đổi hồ sơ, phải thông báo cho nước liên hệ biết kết luận về hồ sơ và đọc cho nước này biết các khuyến cáo [Recommendations] của Tiểu Ban trước khi đệ trình Ủy Ban.
Nước liên hệ được quyền tham dự buổi họp của Uỷ Ban để trình bầy quan điểm về khuyến cáo của Tiểu Ban. Ủy Ban cũng có thể yêu cầu nước liên hệ thay đổi một phần hay toàn bộ hồ sơ cho hợp với Luật Biển. Nếu Ủy Ban không có ý kiến khác thì khuyến cáo của Tiểu Ban sẽ là quyết định của Uỷ Ban. Quyết định của Ủy Ban có giá trị chung quyết và ràng buộc các nước liên hệ.
3. Uỷ Ban hiện nay do Đại Hội Đồng các nước hội viên Luật Biển [họp năm 2007] bầu ra, gồm 21 ủy viên, nhiệm kỳ 5 năm [2007 - 2012]. Như thế, Ủy Ban chỉ có thể thiết lập tối đa 3 Tiểu Ban nên việc giải quyết hồ sơ rất chậm và thường mất vài năm. [Hồ sơ Brazil nộp ngày 17/5/2004, Ủy Ban giải quyết 9/4/2008, mất 4 năm; hồ sơ của Cuba nộp 1/6/2009 -tức sau 13/5/2009 có 17 ngày, Ủy Ban quyết định năm 2030 mới giải quyết, tức 20 năm nữa].
Điều cần lưu ý ở đây là trong số 21 ủy viên của Ủy Ban đương nhiệm có 3 đại diện của 3 nước CS: Trung Cộng, Bắc Hàn và Nga. Điều cần lưu ý nữa là trước khi Uỷ Ban họp để cứu xét hồ sơ thì các nước hội viên Luật Biển họp trước để thông qua chương trình nghị sự của Uỷ Ban. [2]
Hơn nữa, theo Luật Biển, Uỷ Ban chỉ có 2 nhiệm vụ: a] Cứu xét và chấp thuận hồ sơ thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý và b] Cố vấn về khoa học và kỹ thuật biển cho các nước ven biển, nếu được yêu cầu. [3]
Tóm lại, Hà Nội đang ở tư thế cầm quyền và hội viên Luật Biển để độc quyền nộp hồ sơ về thềm lục địa mở rộng VN và quyền “nhào nặn” hồ sơ sau khi nộp. Trong số 21 ủy viên của Ủy Ban có đại diện của Nga, Trung Cộng và Bắc Hàn là một lợi thế khác của Hà Nội. Hà Nội đã nghiên cứu kỹ Luật Biển và nhận ra lợi thế và “kẽ hở” của Luật Biển. Hà Nội bất ngờ nộp hồ sơ cho LHQ vào phút chót là do Bắc Kinh hối thúc và Nguyễn Tấn Dũng là kẻ hoàn tất tiến trình bàn giao Hoàng Sa, Trường Sa và phần lớn Vịnh Bắc Việt cho Bắc Kinh.
II. Phân tích 2 hồ sơ Hà Nội nộp LHQ.
A. Hà Nội không mở rộng Thềm Lục Địa VN, chỉ xác nhận Vùng Đặc Quyền Kinh Tế. [4] [5]
Học gỉa Vũ Hữu San, sau khi đọc hồ sơ Hà Nội đã lên án: “Hà Nội đã lùi bước khi vẽ hải-đồ nộp LHQ. Nếu xem hải-đồ do Hà Nội vẽ để nộp LHQ, chúng ta sẽ thấy: 3/4 biển Hoàng Sa nằm trong hải phận Trung-quốc; 4/5 Trường Sa không còn trong hải phận Việt Nam… Hà Nội đã công khai vẽ hải-đồ và chính thức nộp cho LHQ. Từ nay, Việt Nam cãi gì ngược lại về hải phận cũng không được… Trung Quốc sẽ dùng hải-đồ mà Việt Nam đã nộp LHQ để đàm phán thì số phận Hoàng Sa Trường Sa coi như xong!”
1. Theo Luật Biển, ngày 13/5/2009 là ngày chót để nộp hồ sơ về Thềm Lục Điạ mở rộng, không phải để xác định Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý. Hà Nội đã bỏ lơ suốt 10 năm [từ 13/5/1999 đến 13/5/2009], vào những ngày chót mới nộp hồ sơ nhưng thay vì xin mở rộng Thềm Lục Địa VN lại xác nhận Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý. Chủ quyền của nước ven biển đối với 2 Vùng này khác hẳn nhau.
Theo Luật Biển, Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý là để đánh cá và thuộc chủ quyền tuyêt đối và đương nhiên của các nước ven biển, không cần phải đăng ký. Hà Nội đã đăng ký Vùng Đặc Quyền Kinh Tế này từ ngày 12/11/1982 rồi.
Thềm Lục Địa rộng 200 hải lý theo Luật Biển là vành đai mở rộng của lãnh thổ và có thể kéo dài ra ngoài 200 hải lý cho đến mép tự nhiên của lục địa [continental margin] nhưng không được qúa 350 hải lý. Nước ven biển có độc quyền khai thác khoáng sản và nguyên liệu không phải sinh vật sống ở vùng ngoài 200 hải lý xin mở rộng này.
2. Hà Nội ký Luật Biển ngày 10/12/1982 và phê chuẩn ngày 25/7/1994, tức rất sớm, tất phải biết rõ những điều trên đây. Khi Trung Cộng lấn chiếm Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý của VN, bắn giết bừa bãi ngư dân VN hành nghề hợp pháp trong vùng và dùng võ lực xâm lăng Trường Sa, Hà Nội có trách nhiệm phải nhờ các cơ quan thẩm quyền phân xử nhưng Hà Nội chỉ phản đối xuông cho có phản đối.
Điều 8 Luật Biển LHQ qui định:
-Đường căn-bản [Baseline] là lằn nước thuỷ triều xuống thấp nhất.
-Nội-hải [Internal water] là vùng biển bên trong đường căn-bản.
-Lãnh-hải [Territorial water] rộng 12 hải lý ngoài đường căn-bản.
-Hải-phận [Contiguous Zone] là vùng biển ngoài lãnh-hải.
-Vùng đặc quyền kinh tế [Exclusive Economic Zone] 200 hải lý, tính từ đường căn bản ra khơi.
-Thềm Lục Địa [Continental Shelf] cũng rộng 200 hải lý tức trùng điệp với Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý.
-Thềm Lục Địa mở rộng [Extended Continental Shelf]: Từ 13/5/1999,
Luật Biển cho phép các nước ven biển thời hạn 10 năm để xin mở rộng thềm lục địa đến tối đa 350 hải lý [còn gọi là nền lục địa=continental margin] nếu đáy biển là sự tiếp nối tự nhiên từ đất liền ra biển [như trường hợp đáy biển của VN chạy thoai thoải từ đất liền ra khơi
[Xin đọc bản đồ LHQ qui định chiều rộng các Vùng biển trên đây để thấy Hà Nội không mở rộng Thềm Lục Địa VN và chỉ xác định Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý]
-Cần phân biệt: Lãnh hải rộng 12 hải lý; Hải phận là vùng biển từ lãnh hải ra khơi nên có thể rộng tối đa 350 hải lý.
3. Biển Đông rộng gần 1 triệu 100 ngàn hải lý vuông, Vịnh Bắc Việt chiếm hơn 1/3 diện tích Biển Đông và bờ biển VN dài 3,260 km, trải qua 13 vĩ độ, từ vĩ độ 21 N đến vĩ độ 8 N.
Nếu Thềm Lục Địa VN mở rộng tới 350 hải lý thì hải phận VN rộng gấp 4 lần đất liền và gồm Hoàng Sa Trường Sa vì khi đó hai quần đảo này nằm gần trọn trên Thềm Lục Địa mở rộng 350 hải lý của VN.
Cũng cần biết là 2 nhóm đảo Hoàng Sa và Trường Sa chỉ có một phần rất nhỏ nằm cách bờ biển VN 200 hải lý, hầu hết các đảo của hai nhóm này đều nằm rất xa ngoài khơi, có nơi cách bờ biển VN tới 400 hải lý. Hà Nội biết rõ điều này nên khi xác nhận Thềm Lục Địa VN chỉ 200 hải lý là có ý đồ gạt Trường Sa Hoàng Sa ra ngoài hải phận VN.
B. Hà Nội gạt Trường Sa ra ngoài hải phận 200 hải lý của VN
1. Hà Nội không xin mở rộng thềm lục địa VN ra 350 hải lý mà VN có đủ điều kiện để được hưởng và xác nhận hải phận VN có 200 hải lý và bản đồ kèm theo hồ sơ 6/5/2009 thì gạt hầu như toàn bộ Trường Sa ra ngoài hải phận VN.
Trung Cộng ký Luật Biển LHQ ngày 10/12/1982 và phê chuẩn ngày 7/6/1996 nhưng chưa bao giờ tôn trọng Luật Biển. Trung Cộng còn tự ban hành luật biển riêng vào năm 1992 và công bố bản đồ hình lưỡi bò chiếm 80% Biển Đông, bất chấp các qui định của Luật Biển LHQ.
Bản đồ lưỡi bò Trung Cộng [dưới đây] lấn sát bờ biển VN ở nhiều nơi, có nơi chỉ cách bờ biển VN 40 hải lý, vi phạm Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý của VN, chạy xuống tận đảo Natuma của Nam Dương, tức cách lục địa Trung Hoa gần 1000 hải lý, trong lúc Luật Biển qui định thềm lục địa mở rộng cũng không được vượt qúa 350 hải lý.
. Trung Cộng không nộp hồ sơ mà chỉ cho đại diện tại LHQ gửi công hàm ngày 8/5/2009 cho Tổng Thư Ký LHQ để yêu cầu Ủy Ban không cứu xét hồ sơ của VN và Mã Lai. Kèm với công hàm là bản đồ lưỡi bò mà Trung Cộng biết chắc Uỷ Ban sẽ không thể nào chấp thuận được vì nó trái ngược với các qui tắc của Luật Biển LHQ.
Uỷ Ban Thềm Lục Địa không có quyền chia ranh giới biển. Nguyên tắc của Uỷ Ban là khuyến khích các nước liên hệ tự giải quyết việc phân ranh với nhau. Nếu có tranh chấp giữa 2 hay nhiều nước thì Uỷ Ban có thể không chấp thuận hồ sơ của cả 2 hay nhiều nước.
3. Tuy thế, vấn đề chưa hẳn phải kết thúc ở đây. Các nước liên hệ còn quyền đưa vấn đề ra trước Toà Án Quốc Tế chuyên về biển ở Hamburg, Đức-quốc hay Toà Án Quốc Tế ở La Hague, Hoà Lan.
Đưa ra Toà Án Quốc Tế La Hague thì cũng như không, chẳng giải quyết được gì vì theo quy chế của Toà này thì hai bên tranh tụng có quyền “không thi hành” phán quyết của Toà cho dù chính họ nhờ Toà phân xử.
Trái lại, phán quyết của Toà Án Quốc Tế Hamburg thì có gía trị chung quyết và các bên tranh tụng phải chấp hành. Nhưng vấn đề là Hà Nội có dám tiến tới hay không? Điều này rất khó xảy ra lúc này vì ai cũng biết đảng CSVN hiện nay hoàn toàn lệ thuộc đảng CSTH và Bắc Kinh bảo sao thì Hà Nội cúi đầu làm vậy.
C. Hà Nội gạt Hoàng Sa ra ngoài hải phận 200 hải lý VN.
1. Ngày 7/5/2009, Hà Nội nộp hồ sơ liên quan đến phía Bắc Biển Đông, tức Vịnh Bắc Việt và Hoàng Sa. Tuy lời mở đầu hồ sơ này tuyên bố Hoàng Sa Trường Sa là của VN và cũng nói tới việc mở rộng thềm lục điạ ngoài 200 hải lý nhưng phần chính văn bản thì lờ đi và rõ rật nhất đường ranh 200 hải lý khi gặp nhóm đảo Hoàng Sa thì dừng lại vì 2 bên đã giải quyết qua hiệp ước lén lút ngày 25/12/2000 rồi.
Bản đồ trong hồ sơ 7/5/09 của Hà Nội [dưới] vẽ vùng mở rộng hình tam giác ngược, đỉnh nhọn ở dưới, cạnh đáy nằm nghiêng ở trên gạt Hoàng Sa ra ngoài, tức đã giải quyết rồi?
. Đường ranh giới 200 hải lý VN màu đỏ chạy từ vĩ độ 10 N lên phía Bắc, khi vừa gặp quần đảo Hoàng Sa ở vĩ độ 15 N thì đột ngột dừng lại.
Đường vẽ ở bản đồ của Hà Nội không chính xác; Hà Nội cố ý vẽ đường ranh 200 hải lý này nhô lên tận vĩ tuyến 16 N, trong lúc hồ sơ ghi đường này dừng lại ở 15 N 067, tức chỉ nhô khỏi 15 N một chút, không thể tới vĩ tuyến 16 N được.
3. Vùng biển Hà Nội xin mở rộng ngoài 200 hải lý trong hồ sơ 7/5/2009 có hình tam giác ngược, đỉnh rất nhọn phía dưới cách xa nhóm Trường Sa, cạnh đáy nằm chếch ngang ở phía trên vừa đụng nhóm Hoàng Sa thì dừng lại vì nhóm đảo Hoàng sa nằm trọn từ vĩ độ 15 N đến 17 N, tức Hoàng Sa Trường Sa đều ở ngoài hình tam giác mở rộng của Hà Nội.
Nói cách khác, vùng biển Hà Nội xin mở rộng ngoài 200 hải lý hình tam giác ngược chỉ là một vùng nước biển, dưới cố tránh đụng Trường Sa, trên cố né chạm Hoàng Sa, tức chẳng ảnh hưởng gì tới phần chính của hai quần đảo này hay đụng chạm đôi chút đến nhóm Trường Sa thì cũng chỉ là một vài đụn hay đá mà thôi.
Hay theo chuyên gia về Hoàng Sa Trường Sa Vũ Hữu San thì: “VN chỉ còn 1 đảo độc nhất là Tri Tôn trong số trên 100 đảo của nhóm Hoàng Sa,” và “VN chỉ còn đảo Trường Sa nổi và 2 đảo chìm, trong số trên 100 đảo nổi và chìm của nhóm Trường Sa.”
D. Hiệp ước 25/12/2000 phân định lại Vịnh Bắc Việt?
1. Ngày 25/12/2000, Hà Nội và Bắc Kinh ký hiệp ước phân định lại Vịnh Bắc Việt, nhưng dấu kín nội dung trong nhiều năm tuy dư luận đã ầm ĩ từ trong nước ra hải ngoại là Đảng CSVN đã dâng Đảng CSTH 11 ngàn km2 vùng Vịnh Bắc Việt qua hiệp ước lén lút này. Khi bản đồ [dưới đây] trong 1 hồ sơ mật của Hà Nội bị phát hiện thì giới nghiên cứu cho rằng Hà Nội đã dâng cho Bắc Kinh tới 20 ngàn km2 Vịnh Bắc Việt, chứ không chỉ 11 ngàn km2.
Bản đồ trong hồ sơ mật của Hà Nội về hiệp-ước Vịnh Bắc Việt 25/12/2000 bị phát hiện]
Trong số 21 điểm qui định trong bản đồ đính kèm hiệp ước 25/12/2000, ngoại trừ điểm 1 nằm ở vĩ tuyến 21 độ Bắc, tức cửa sông Bắc Luân [ranh giới tỉnh Móng Caí/VN và tỉnh Quảng Đông/TH], các điểm mốc từ số 2 đến số 21 đều lấn sâu vào bờ biển VN. Như điểm mốc 17 cách bờ biển VN 44 hải lý và cách đảo Hải Nam tới 73 hải lý; tức TH vượt trội VN 29 hải lý; sự phân chia không đều và cũng không giữa bờ biển với bờ biển hay đảo với đảo như Luật Biển qui định.
2. Trước dư luận lên án đảng CSVN lén lút dâng biển cho đảng CSTH ngày càng dữ dội, ngày 28/1/2002 Lê Công Phụng [Thứ-trưởng Ngoại Giao - Trưởng đoàn đàm phán về biên giới và phân định lại Vịnh Bắc Việt] lên tiếng thanh minh thì lại càng lộ ra việc Đảng CSVN đã bán nước cho Đảng CSTH từ lâu và Phụng thì dối gạt về Luật Biển LHQ và trách nhiệm chính trong vụ hiệp ước 25/12/2000.
Theo Lê Công Phụng, chính TBT Đỗ Mười [năm 1993] và TBT Lê Khả Phiêu [1997] đã sang tận Bắc Kinh để “thoả thuận các nguyên tắc căn bản về biên giới và lãnh hải” với TBT Giang Trạch Dân. Phần Phụng thì dối gạt trắng trợn rằng y đã “căn cứ vào các qui định của Luật Biển LHQ và các nguyên tắc quốc tế và tập quán” trong lúc đàm phán với Bắc Kinh. Sự thực trái ngược hẳn lời Phụng nói với báo chí và sau đây là vài dẫn chứng:
-Theo Luật Biển, nếu 2 bên không thể thỏa thuận được với nhau thì phân chia lãnh hải theo “đường trung tuyến” [median line]. Đường trung tuyến ở đây phải là đường giữa đảo Bạch Long Vĩ của VN và đảo Hải Nam của TH và khoảng cách phải bằng nhau giữa 2 đảo này. Nhưng Phụng bất chấp điều luật này và chấp thuận đường phân chia cách Bạch Long Vĩ 15 hải lý và cách Hải Nam tới 55 hải lý, tức không đều nhau và TH vượt trội VN tới 40 hải lý. Bộ trưởng ngoại-giao Hà Nội Nguyễn Duy Niên còn “ngon” hơn khi tuyên bố: “Đường trung tuyến cách đảo Bạch Long Vĩ 15 hải lý, tức đảo được hưởng lãnh hải 12 hải lý, Vùng Đặc Quyền Kinh Tế và Thềm Lục Địa được hưởng 3 hải lý.”
-Luật Biển qui định đường trung tuyến phải chạy giữa 2 đường bờ biển hay giữa đảo với đảo. Phụng cũng bất chấp qui định này và chấp thuận đường trung tuyến giữa đảo Hải Nam TH với bờ biển VN, hy sinh đảo Bạch Long Vĩ của VN vì theo luật thì đường trung tuyến phải giữa đảo Bạch Long Vĩ VN với đảo Hải Nam TH.
-Toà Án Quốc Tế, Án lệ Lybia kiện Malta [1985], đã phán quyết: Đảo dù lớn đến đâu cũng không bình đẳng với Lục-địa được và không cho đảo Malta được có hải phận rộng bằng lục địa nước Lybia. Phụng đảo ngược Án lệ này khi cho đảo Hải Nam của TH có hải phận rộng hơn cả lục địa nước VN.
3. Theo giới hiểu biết thì Hà Nội và Bắc Kinh đều không có một lý do nào để phân định lại Vịnh Bắc Việt. Hiệp ước Constans ký kết tại Bắc Kinh ngày 16/6/1887 giữa đại diện Pháp [đô hộ VN lúc đó] và đại diện nhà Thanh [đô hộ TH] vẫn còn nguyên hiệu lực và hoàn toàn phù hợp với Luật Biển LHQ mà Hà Nội và Bắc Kinh đều đã ký kết. Ngày 12/11/1982, chính Hà Nội đã công bố lãnh hải VN vùng Vịnh Bắc Việt phải theo hiệp ước 16/6/1887, tức 63% diện tích Vịnh Bắc Việt thuộc về VN. Nhưng Bắc Kinh không chịu, buộc Hà Nội phải phân định lại vùng này và đảng CSVN do Lê Công Phụng đại diện đã ngoan ngoãn cúi đầu khuất phục và ký hiệp ước 25/12/2000.
Hậu qủa của hiệp ước 25/12/2000 là VN đi từ 63% diện tích cũ xuống còn 53%. Theo nhà nghiên ứu Vũ Hữu San thì thực tế còn bi đát hơn nữa: TQ chiếm 55%, VN 45% là tối đa, tức VN mất 20% hay 20 ngàn km2 Vịnh Bắc Việt và vùng biển Hoàng Sa cũng về tay Trung Cộng qua hiệp ước phân định lại Vịnh Bắc Việt. Vì mất mát quá nhiều Hà Nội đã phải dấu kín hiệp ước 25/12/2000 và nay Nguyễn Tấn Dũng mưu toan “công khai hóa” qua hồ sơ LHQ.
III. Nhận định cần thiết.
1. Công hàm 14/9/1958 của Phạm Văn Đồng và vấn đề chủ quyền Hoàng Sa Trường Sa.
Trước hết, công hàm 14/9/1958 là một bằng cớ không thể chối cãi trong số biết bao hành vi bán nước của Đảng CSVN từ khi đảng này du nhập vào VN. Sau khi Phạm Văn Đồng gửỉ Chu Ân Lai để nhìn nhận lãnh hải 12 hải lý Trung Quốc, bao gồm cả Hoàng Sa Trường Sa của VN, Hà Nội dù có “cãi chầy cãi cối” đến đâu cũng không xoá đi được tội ác bán nước của Đảng CSVN. Bút sa gà chết, gà ở đây là Đảng CSVN, vì công hàm 14/9/1958 không thể làm mất chủ quyền VN đối với Hoàng Sa Trường Sa trước pháp luật.
Vì thế, tuy thường dùng công hàm 14/9/1958 để tuyên bố lung tung về Hoàng Sa Trường Sa nhưng Trung Cộng thừa biết nó vô giá trị trước luật pháp. Nguyên tắc của hình luật phổ thông là: Không ai được quyền cho một vật mà mình không có. Huống hồ là Hoàng Sa Trường Sa, biển đảo của một nước, không những không phải “của” Đồng và Đồng còn biết chắc “chúng” thuộc về VNCH qua nhiều văn kiện có giá trị quốc tế còn lưu trữ.
Chính vì biết rõ văn kiện 14/9/1958 hoàn toàn vô hiệu trước luật pháp nên Trung Cộng chưa bao giờ dám nộp vào hồ sơ để tranh chấp Hoàng Sa Trường Sa với VN trong khi đó Trung Cộng đã lập một hồ sơ với đầy đủ văn kiện, bản đồ nộp cho Ủy Ban Thềm Lục Địa để tranh chấp chủ quyền với Nhật về bãi đá ngầm Okinotori, phía Đông Biển Đông [East China Sea], một bãi đá nhỏ mà gía trị không thể nào so sánh với Hoàng Sa Trường Sa.
Giới học giả Trung-quốc cũng biết rõ như thế và Tiến Sĩ Lo Chi-Kin Trung-quốc từng thú nhận: “Bắc Kinh không bao giờ dám đưa những tranh chấp về hải đảo tại Biển Đông ra trước các cơ quan trọng tài quốc tế.” [6]
Hà Nội cũng biết thế nên mới bày ra việc phân chia lại Vịnh Bắc Việt, ký hiệp ước 25/12/2000 để Trung Cộng lấn sâu vào hải phận VN [có nơi chỉ cách bờ biển VN 40 hải lý] và nay, nhân việc nộp hồ sơ về thềm lục địa mở rộng, Hà Nội đã không ngần ngại gạt Hoàng Sa Trường Sa ra ngoài hải phận 200 hải lý của VN và giải thích quanh co.
LS Nguyễn Hữu Thống, tác gỉa “Vấn đề Hoàng Sa Trường Sa theo Công Pháp Quốc Tế”, đã nhận xét chính xác về công hàm 14/9/1958 như sau: “Trên phương diện luật pháp và hiến pháp, vấn đề lãnh thổ quốc gia thuộc chủ quyền của quốc dân do Quốc Hội đại diện. Chính phủ là một cơ quan hành pháp có nhiệm vụ chấp hành các đạo luật, hiệp ước và công ước do Quốc Hội phê chuẩn và ban hành. Do đó thủ tướng chính phủ không có tư cách và thẩm quyền chuyển nhượng chủ quyền lãnh thổ.” [7]
2. Nguyễn Tấn Dũng hoàn tất tiến trình dâng Hoàng Sa Trường Sa cho Trung Cộng.
Công hàm 14/9/1958 thì vô hiệu và hiệp ước 25/12/2000 thi vẫn phải lén lút nên Luật Biển LHQ là cơ hội “ngàn năm một thưở” để Nguyễn tấn Dũng hoàn tất tiến trình dâng Hoàng Sa Trường Sa cho Đảng CSTH của Đảng CSVN, khởi đi từ công hàm 14/9/1958 của Phạm Văn Đồng và rất có thể trước nữa, giữa Hồ Chí Minh và Mao Trạch Đông.
Như trên đã nói, học gỉa Vũ Hữu San cho rằng: “Hà Nội đã lùi bước khi vẽ hải-đồ nộp LHQ… Nếu xem hải-đồ do Hà Nội vẽ để nộp LHQ, chúng ta sẽ thấy: 3/4 biển Hoàng Sa nằm trong hải phận Trung-quốc; VN chỉ còn 1 đảo độc nhất là Tri Tôn trong số trên 100 đảo của nhóm Hoàng Sa; 4/5 biển Trường Sa không còn trong hải phận VN; VN chỉ còn đảo Trường Sa nổi và 2 đảo chìm, trong số hơn 100 đảo nổi, chìm của nhóm Trường Sa.” Nhưng một phó thủ-tướng Hà Nội vẫn trắng trợn tuyên bố: “Tại vùng Trường Sa, ta được thêm 23 đảo ngầm dưới mặt biển, như vậy coi như một thắng lợi!”
Vẫn theo Vũ Hữu San: “Hà Nội đã công khai vẽ hải-đồ và chính thức nộp cho LHQ. Từ nay, Việt Nam cãi gì ngược lại về hải phận cũng không được. Hà Nội tuyên bố sẽ tìm mọi cách để giải quyết vấn đề Biển Đông và trong thời gian sắp tới, hai bên “cùng bàn bạc, đàm phán, phân định biên giới biển. Khi đó, Trung Quốc sẽ dùng hải-đồ mà Việt Nam đã nộp LHQ để đàm phán thì số phận Hoàng Sa Trường Sa coi như xong!”
Sự thật thì Hà Nội đang mưu toan dâng trọn Hoàng Sa, Trường Sa và phần lớn Vịnh Bắc Việt cho Bắc Kinh qua
hồ sơ nộp LHQ, không chỉ 3/4 Hoàng Sa, 4/5 Trường Sa.
Thật vậy, đường hải phận 200 hải lý ở bản đồ Hà Nội nộp LHQ không đúng với vĩ độ thực của nó. Hà Nội đã cố ý vẽ đường ranh 200 hải lý này nhô lên quá vĩ độ 16 N, trong lúc toạ độ thực của nó trong hồ sơ Hà Nội nộp LHQ ghi rõ ràng là nó dừng lại ở vĩ độ 15 N 067, tức nhô quá vĩ độ 15 N một chút, chứ không thể vượt quá cả vĩ độ 16 N như Hà Nội vẽ được. Nhóm đảo Hoàng Sa nằm trọn trong 3 vĩ độ, 15 N đến 17 N; đường ranh 200 hải lý VN dừng lại ở vĩ độ 15 N 067, tức Hà Nội gạt toàn bộ nhóm đảo Hoàng Sa ra ngoài hải phận 200 hải lý của VN.
Theo Luật Biển, Uỷ Ban sẽ không cứu xét nếu hồ sơ bị phản đối. Hồ sơ của Hà Nội bị Bắc Kinh phản đối ngay sau khi nộp nhưng vẫn được Uỷ Ban cứu xét. Điều này chỉ có thể giải thích: Hoặc công hàm phản đối của Bắc Kinh đã không được Ủy Ban lý cứu xét vì cái bản đồ lưỡi bò bất hợp pháp của Trung Cộng hoặc Hà Nội và Bắc Kinh đã thay đổi hồ sơ sau khi nộp như Thủ Tục Cứu Xét cho phép. Vì lý do nào thì cũng chứng tỏ một điều là Hà Nội và Bắc Kinh đã nghiên cứu kỹ Luật Biển và Thủ Tục Cứu Xét và đang lợi dụng Luật Biển để dâng biển đảo cho Bắc Kinh.
Bắc Kinh biết Uỷ Ban sẽ không lý tới phản đối của mình vì cái bản đồ hình lưỡi bò được vẽ bất chấp qui định của Luật Biển nhưng vẫn gửi công hàm phản đối để tung hoả mù và đánh lạc hướng dư luận. Hà Nội, trước sự đòi hỏi chính đáng từ trong nước đến hải ngoại nên không thể không nộp hồ sơ. Hà Nội và Bắc Kinh đều biết rõ có quyền sửa đổi hay thậm chí thay đổi hồ sơ sau khi nộp và kết quả cuối cùng thì vẫn do 2 bên liên hệ quyết định vì, theo Luật Biển, Uỷ Ban hầu như chỉ đóng vai trọng tài điều đình hay hoà giải và nhất nhất đều phải tham khảo với đôi bên.
3. Việc mở rộng thềm lục địa và vấn đề chủ quyền Hoàng Sa Trường Sa.
a] Tại hội nghị chuyên đề về Biển Đông ở Hà Nội ngày 10/11/2009, Vụ-trưởng Ban Biên-giới Nguyễn Duy Chiến phát biểu: “VN là nước ven biển nên đã nộp báo cáo cho Uỷ Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa để bảo vệ quyền của VN đối với thềm lục địa ngoài 200 hải lý” và “việc Ủy Ban này xem xét báo cáo không ảnh hưởng đến vấn đề chủ quyền biển đảo.” Qua lời Chiến, Hà Nội một lần nữa lại dối gạt và bóp méo Luật Biển, y hệt Lê Công Phụng khi ký hiệp định 25/12/2000 và Vũ Dũng, một thứ trưởng của Hà Nội, nói với báo chí về biên giới năm 2008. [8] [9]
Thật thế, hồ sơ Hà Nội nộp LHQ sẽ gây thiệt hại vô tiền khóang hậu cho VN vì chẳng những trước mắt mất Hoàng Sa Trường Sa và phần lớn Vịnh Bắc Việt qua Luật Biển mà hậu qủa tất yếu là rồi đây Trung Cộng có thể thôn tính VN dễ dàng bất cứ lúc nào khi đã khống chế được phía Đông VN! Quyền lợi cấp thiết và sinh tử của VN ở đây rõ ràng là mở rộng thềm lục địa ra 350 hải lý mà VN có đủ điều kiện theo Luật Biển để được hưởng và khi đó thì Hoàng Sa Trường Sa nằm gọn trên thềm lục điạ VN. Theo Điều 77 Luật Biển, quyền của các nước ven biển đối với thềm lục địa là một quyền tuyệt đối để thăm dò và khai thác dầu khí và như thế thì liệu các công ty dầu khí quốc tế có dám ký hợp đồng hàng chục tỷ với Trung Cộng để vào khai thác ở vùng biển được LHQ xác định là của VN nữa hay không?
Thế nhưng Hà Nội lại xác định thềm lục địa VN chỉ 200 hải lý; tức gạt vùng biển Hoàng Sa Trường Sa ra ngoải thềm lục địa VN, gián tiếp gạt Hoàng Sa Trường vào trong hải phận hay chu vi bản đồ lưỡi bò Trung Cộng. Về mặt luật pháp thuần túy, đây là một hành vi “chuyển nhượng lãnh thổ quốc gia” bất hợp pháp và có dự mưu cho ngoại bang; Nguyễn Tấn Dũng và đồng bọn có thể bị truy tố về tội danh phản quốc và chí ít cũng thêm tội lạm quyền; khuynh hướng luật pháp quốc tế hiện nay liệt tội lạm quyền vào loại tội ác nghiêm trọng. [10]
b] Âm mưu dâng Hoàng Sa Trường Sa cho ngoại bang của Đảng CSVN lộ rõ hơn nữa khi đại diện Hà Nội vừa tuyên bố “sẽ tìm mọi cách để giải quyết vấn đề Biển Đông” và trong thời gian sắp tới “2 bên cùng bàn bạc, đàm phán, phân định biên giới trên biển.” Hai bên sẽ đàm phán thế nào thì vụ đàm phán 10 năm trước với hiệp ước 25/12/2000 về Vịnh Bắc Việt đủ để biết trước hậu quả của đàm phán song phương của Hà Nội với Bắc Kinh.
10 năm trước, Nhật Báo Nhân Dân Bắc Kinh của Trung Cộng đã hoan hỉ ghi lại kết quả về đàm phán: “Hải Nam là tỉnh nhỏ nhất của TH, nhưng sở hữu tới 2 triệu 200 ngàn km2 Vùng Đặc Quyền Kinh Tế” và học gỉa Vũ Hữu San nhận xét: “Chỉ một hòn đảo Hải Nam thôi, TH đã chiếm phần lớn Biển Đông… Làm sao VN còn đầy đủ sức lực cho cuộc thương thảo nhiều lần quan trọng hơn về Trường Sa Hoàng Sa cũng như toàn thể chủ quyền Biển Đông sau này. Phía Trung Cộng vẫn chưa chính thức bước vào cuộc thương thảo lớn về Biển Đông thế mà họ đã thực sự thắng hiệp quyết định. Sỉ nhục Quốc Thể! Sĩ khí ở chỗ nào thế? Hỡi các “đồng chí” CSVN ơi!”
Nói cụ thể hơn, qua thương thảo 10 năm trước trong việc phân định lại Vịnh Bắc Việt, Hà Nội đã dâng cho Bắc Kinh khoảng 20 ngàn km2 Vịnh Bắc Việt, đã để cho Bắc Kinh lấy bằng hết vùng thủy tra thạch ở cửa sông Hồng, nơi có tiềm năng dầu khí, và để cho Trung Cộng lấn chiếm Vùng Đặc Quyền Kinh Tế phía Bắc VN, có nơi chỉ còn cách bờ biển VN có 40 hải lý. Nay thì tệ hại vô cùng vì chưa bước vào thương thảo tay đôi với Bắc Kinh mà Hà Nội đã tự “trói miệng” hay chịu thiệt trước, khi xác nhận với LHQ là Thềm Lục Địa hay Vùng Đặc Quyền Kinh Tế hay hải phận VN chỉ có 200 hải lý, tức Hoàng Sa Trường Sa ngoài hải phận VN!
Hà Nội biết rõ hơn ai hết Hoàng Sa Trường Sa là của VN với đầy đủ bằng chứng gía trị về tất cả mọi mặt, Trung Cộng dùng võ lực xâm chiếm Hoàng Sa và cùng một số nước khác chiếm đóng bất hợp pháp phần lớn Trường Sa thì Hà Nội có trách nhiệm phải đưa vấn đề ra trước cơ quan thẩm quyền để trục xuất kẻ xâm lược nếu không tự mình làm được điều này chứ sao lại thương thảo để chia chác biển đảo VN với quân cướp? Cho dù không trục xuất được bọn cướp ngay thì phán quyết của một Toà Án Quốc Tế [như Hamburg chuyên về Luật Biển chẳng hạn] chí ít cũng giúp VN giữ được chủ quyền về pháp lý [và rất cần thiết cho mai sau] và ngăn chặn bất cứ ai muốn nhẩy vào hợp đồng khai thác với bọn cướp.
c] Nguyễn Duy Chiến còn cho rằng “việc mở rộng thềm lục địa không liên hệ gì đến chủ quyền Hoàng Sa Trường Sa” hay “việc Uỷ Ban cứu xét hồ sơ thềm lục địa mở rộng không ảnh hưởng đến vấn đề chủ quyền biển đảo.”
Sự thật cũng trái ngược với lời Chiến: Việc mở rộng thềm lục địa VN liên đới chặt chẽ với chủ quyền Hoàng Sa Trường Sa; rõ ràng là nếu thềm lục địa VN mở rộng ra 350 lý thì VN đương nhiên làm chủ Hoàng Sa Trường Sa vì khi đó Hoàng Sa Trường Sa nằm gọn trên thềm lục địa VN. Hơn nữa, theo Điều 77 Luật Biển thì đây là chủ quyền tuyệt đối của nước ven biển trong việc thăm dò và khai thác dầu khí.
Một lý do quan trọng khác khiến không nên tách Hoàng Sa Trường Sa ra khỏi thềm lục địa VN là vì 2 nhóm đảo này không được xem là hải đảo hay quần đảo theo nghĩa của Luật Biển. Theo Luật Biển, hải đảo hay đảo là một giải đất thiên nhiên bao bọc bởi nước và cao hơn mực nước thủy triều. Nhóm Hoàng Sa Trường Sa chỉ có tiểu đảo, không có thường dân cư ngụ và không tự túc về kinh tế nên không được hưởng quy chế hải đảo hay đảo [Điều 121 Luật Biển].
Hoàng Sa Trường Sa cũng không phải là quần đảo theo nghiã Luật Biển vì diện tích quá nhỏ [6 hải lý vuông] trong một vùng biển rộng tới 180 ngàn hải lý vuông, vì theo Luật Biển [Điều 46, 47], quần đảo bao gồm các đảo nằm san sát bên nhau và phải có diện tích bằng ít nhất 1/9 vùng biển [như Nam Dương chẳng hạn].
d] Hà Nội lúc nào cũng cho rằng VN có chủ quyền đối với Hoàng Sa Trường Sa nhưng chỉ tuyên bố cho có tuyên bố hay hội thảo um sùm nhưng thực tế thì để cho Trung Cộng chiếm trọn Hoàng Sa và lấn chiếm dần dần Trường Sa. Hoàng Sa Trường Sa là của VN với đầy đủ bằng cớ giá trị về tất cả phương diện lịch sử, địa lý, hành chánh và pháp lý thì ai cũng biết và chắc chắn Trung Cộng cũng biết nên mới phải dùng võ lực lấn chiếm. Nếu không đử sức để bảo vệ khi Hoàng Sa Trường Sa bị xâm lăng,
Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý huyết mạch bị xâm lấn và thậm chí ngư dân VN bị bắn giết bừa bãi, tịch thu tàu thyền trong lúc hành nghề hợp pháp trong vùng biển VN, thì chí ít Hà Nội có trách nhiệm phải đưa vấn đề ra trước các cơ quan thẩm quyền phân xử. Nhưng Hà Nội chỉ phản ứng xuông qua loa vì có nhiều dấu hiệu khả tín chứng tỏ Đảng CSVN đã dâng Hoàng Sa Trường Sa và phần lớn Vịnh Bắc Việt cho Đảng CSTH từ lâu rồi và nay Nguyễn Tấn Dũng nộp hồ sơ cho LHQ để hoàn tất tiến trình bàn giao những gì đã thoả thuận ngầm giữa 2 Đảng CS này mà thôi.
Về công pháp quốc tế, sau nhiều thập niên bàn cãi qua nhiều hội nghị quốc tế, Luật Biển LHQ ra đời để giải quyết những tranh chấp xảy ra trên biển nhất là từ khi khám phá ra tiềm năng to lớn về dầu khí và khí đốt dưới đáy biển. Quan niệm biển cả là tài sản chung của nhân loại, Luật Biển dành quyền giải quyết mọi tranh chấp xảy ra trên biển, đặc biệt là vấn đề mở rộng thềm lục địa với những điều khỏan qui định rõ ràng và “chỉ vấn đề nào Luật Biển không đề cập tới mới giải quyết theo tập tục hay qui tắc tổng quát của Công Pháp Quốc Tế.” Do đó, các nguyên tắc như quyền chiếm hữu [occupation] hay công bố minh thị [express proclamation], nếu có được viện dẫn sau này để cho rằng “việc Trung Cộng chiếm cứ Hoàng Sa Trường Sa không có tác dụng tước đoạt chủ quyền lãnh thổ của VN” [11] thiết nghĩ làm sao vô hiệu được quyết định của Ủy Ban Thềm Lục Địa khi Uỷ Ban này căn cứ vào thẩm quyền minh thị bởi Luật Biển LHQ để xác định thềm lục địa hay hải phận VN chỉ có 200 hải lý -tức Hoàng Sa Trường Sa nằm ngoài hải-phận VN- do Hà Nội chính thức đề nghị.
Tác giả :Nguyễn Thành
-Coordinator of Justice & Peace Group for Paracel & Spratly Islands of Vietnam
-Florida, viết cho Quê Hương Tôi, cho Ngày 19/1 Tưởng Niệm Chiến Sĩ “Quyết Chiến” bảo vệ Hoàng Sa và cho Hội Ngộ Cựu SV Luật Khoa Sàigòn Toàn Cầu, 2 & 3/4/2010, Houston, Texas, Hoa Kỳ.
Tài liệu tham khảo:
-Submission by VN in respect of N. Area VNM-N [5/7/2009]
-Joint Submission by Malaysia & VN in respect of the South part of the South China Sea [5/6/2009]
-UN Convention on the Law of the Sea
-Vũ Hữu San, Địa Lý Biển Đông với Hoàng Sa Trường Sa, 2007; vuhưsan.com
-Nguyễn Hữu Thống, Vấn đề Hoàng Sa Trường Sa theo Công Pháp Quốc Tế, 2008
-Nguyễn Thành, Đưa Việt Cộng ra trước Toà Án Hình Sự Quốc Tế và Toà Án các Quốc Gia về những Tội Ác Nghiêm Trọng, bài nghiên cứu, các báo Tiếng Vang, CaliToday, Chánh Đạo, Gọi Đàn,… California, Hoa Kỳ, tháng 5 và 6 năm 2002; Hà Nội âm mưu dâng Hoàng Sa Trường Sa cho Bắc Kinh qua hồ sơ nộp LHQ, bài thuyết trình, Nam California, Hoa Kỳ, ngày 25 và 26/7/2009.
Chú thích:
[1] Statement by the Chairman of the Commission 24th Sessions [8 Aug 2009 to 11 Dec 2009], UNCLOS.com
[2] Theo Luật Biển, chương trình nghị sự khóa họp của Ủy Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa do Đại Hội các nước hội viên Luật Biển duyệt xét và quyết định trước. Do đó, trước khi Ủy Ban Thềm Lục Địa khóa họp 24 khai mạc ngày 8/8/2009 ở trụ sở LHQ, các nước hội viên Luật Biển [trong đó có VN và TQ] đã họp trước, từ 22 đến 26/6/2009 ở cùng địa điểm, để duyệt xét và thông qua chương trình nghị sự khóa họp của Ủy Ban. Vì thế mà hồ sơ Thềm Lục Địa VNCH do nhóm cựu thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn soạn thảo kèm 2 thùng tài liệu gửi cho Tổng thư ký LHQ ngày 27/4/2009 đã không tới được Ủy Ban Thềm Lục Địa là cơ quan có thẩm quyền về mở rộng thềm lục địa. Quí vị quan tâm tới vần đề Hoàng Sa Trường Sa cần lưu ý điều này, nếu không thì hầu như Tuyên Cáo, Bạch Thư, Kháng Thư,… có gửi cho TTK LHQ thì cũng không được chuyển tới cơ quan có thẩm quyền là Uỷ Ban Thềm Lục Địa hay có tới thì cũng không được Ủy Ban lưu ý vì vượt ra ngoài nhiệm vụ hay thẩm quyền của Ủy Ban [xin đọc chú thích [3] dưới đây].
[3] The functions of the Commission shall be: 1] to consider the data and other material submitted by coastal States concerning the outer limits of the continental shelf in area where those limits extend beyond 200 nautical miles, and to make recommendations in accordance with article 76 and 2] to provide scientific and technical advice, if requested by coastal States. [Điều 3 Phụ Bản II Luật Biển LHQ]
[4] The continental shelf of a coast al nation extends out to the outer edge of the continental margin but at least 200 nautical miles from the baselines of the territorial sea margin does not stretch that far. The outer limit of a country’s continental shelf shall not stretch beyond 350 nautical miles of the baseline, or beyond 100 miles nautical miles from the 2,500 meter isobath. [Điều 77 Luật Biển LHQ]
[5] An Exclusive Economic Zone extends for 200 nautical miles [370km] beyond the baselines of the territorial sea, thus it includes the territorial sea and its contiguous zone. A coastal nation has control of all economic resources within its EEZ, including fishing, mining, oil exploration,
and any pollution of those resources. Hpwever, it can’t regulate or prohibit passage or loitering above, on, or under the surface of the sea, whether innocent or belligerent, withinthat portion of its EEZ beyond its territorial sea. [Điều 76 Luật Biển LHQ]
[6] “On its position over the islands, China has been most reluctant to sujects the disputes to international legal arbitration: The case of South China Sea Islands by Chi-Kin Lo, 1989”.
[7] [11] LS Nguyễn Hữu Thống, sđd, tr. 38 và 16.
[8] Vietnamnet, Hội nghị Biển Đông Hà Nội, 10//11/2009.
[9] Vũ Dũng, một thứ-trưởng ngoại giao Hà Nội khác, sau Lê Công Phụng, tuyên bố với báo chí đầu năm 2008 đã bị chính cựu Đại tá CS Bùi Tín cho là dối trá và thách đối chất như sau: “Do nắm chắc tình hình…mà tôi [Bùi Tín] muốn hỏi ông Vũ Dũng là theo ông có thật là ta không mất đất ở vùng Hà Giang, Lào Kay, Hoàng Liên Sơn không? Theo tôi, các đoàn đàm phán của ta từ 1996 đến 1999 đã tỏ ra rất mềm yếu. Nhiều giải núi ở Tây Bắc thưa dân, giầu tài nguyên, có gía trị quân sự bị lấn chiếm. Con số 700 đến 800 km2 bị mất không phải là bịa đặt. Thực tế có thể hơn… Giang Trạch Dân luôn thúc dục Lê Khả Phiêu phải thương lượng nhanh, phải ký hiệp ước trên bộ trong năm 1999 và trên biển trong năm 2000. Có ai đi thương lượng lại chịu ép trước về thời gian đến thế? Cho nên rất dễ hiểu là các nhà đàm phán VN đều nhũn như con chi chi. Chính Đỗ Mười cũng tố cáo Lê Khả Phiêu là nhượng bộ quá, “để mất quá nhiều” cho Trung-quốc… Hai bên đã thỏa thuận tháng 6/2008 này sẽ hoàn tất việc phân giới, cắm mốc và ký nghị định thư về biên giới trên bộ… Lúc ấy muốn che dấu, úp mở cũng không được nữa. Phía Bắc Kinh sẽ nhanh nhẩu phổ biến tập bản đồ mới để khoe thắng lợi, vì họ thắng đậm… Lúc ấy, các ông Vũ Dũng, Lê Dũng, Lê Công Phụng, rồi các ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm, Nguyễn Di Niên, đến ông Lê Khả Phiêu và 4 ông tứ trụ Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng sẽ có đầy đủ chứng cớ minh bạch là đã bảo vệ biên giới bất khả xâm phạm của Tổ-quốc ra sao, hay sẽ đực mặt bán đất bán nước ra sao!” [Vietbao.com, 4/9/2008]
[10] Toà Án Quốc Tế ad hoc Bosnia thiết lập bởi nghị quyết của HĐBA ngày 25/5/1993 đã truy tố Slobodan Milosovic, Tổng thống đương quyền Liên Bang Nam Tư, và thẩm phán Tây Ban Nha Baltasar Gapzon đã thành công khi ký trát nã bắt quốc tế bắt Augusto Pinochet, cựu tổng thống Chile, ở London ngày 16/10/1998 khi ông này đến đây chữa bịnh, nhưng ông Gapzon không thành công khi đòi thẩm vấn Henry Kissinger, cựu ngoại trưởng Hoa Kỳ, khi Kiss đến London diễn thuyết năm 2002 vì Kiss kịp trốn về nước khi được mật báo; Milosovic, Pinochet và Kiss đều bị truy tố về tội lạm quyền cùng với nhiều tội ác nghiêm trọng khác. [Nguyễn Văn Thành, Vụ án Pinochet làm rung chuyển luật Pháp quốc tế, Việt Nam Nhật Báo, 5/8/2000]
Nguồn :http://freelecongdinh.wordpress.com/2010/03/09/nguy%e1%bb%85n-t%e1%ba%a5n-dung-dang-giao-hoang-sa-tr%c6%b0%e1%bb%9dng-sa-cho-tq-qua-lhq/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét