Chào mừng bạn đến với blog ĐỌC & SUY NGẪM .

30 thg 11, 2010

CÁC NHÀ VĂN VIỆT NAM BẮT ĐẦU LÊN TIẾNG VỀ CHUYỆN… THẾ SỰ


Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách “ cái “định đề” này từng trở thành tiêu chí hành động của không ít người làm báo, làm văn; nhưng thời gian gần đây báo chí lại bắt đầu dè dặt hơn, nhất là sau vụ 2 nhà báo của báo Thanh Niên và Tuổi trẻ bị bắt do vụ đưa tin về vụ án PMU 18.
Sau vụ này, 2 tờ báo này có vẻ nhụt, xìu hẳn. Nếu quan sát báo “ lề phải “, 4 tờ báo Tuổi trẻ, Thanh Niên, Lao Động, Tiền phong…thì diện mạo của các tờ báo có bề dày và chỗ đứng trong lòng bạn đọc đã thay đổi một cách ghê gớm trong vài năm gần đây…

Tuổi trẻ, Thanh Niên hình như chọn cách tránh xa những vấn đề thế sự nóng hổi, thỉnh thoảng đá gà đá vịt đôi chút cho đỡ ngứa nghề còn phần lớn là thúc thủ, “ rửa tay gác kiếm “;
Tiền phong thì vẫn tỉnh thoảng tạt ngang, tạct dọc vài đường nhưng cũng chỉ dám chơi bóng ở khu “ trung tuyến “, ít khi dám đẩy tiền đạo lao sâu vào khu vực 16,5 để trổ “ chân nghề ”…
Báo Lao động thì “ sớm vác ô đi, tối vác ô về “ trong cái cách đưa bài vở liên quan tới thế sự…
Thế nhưng một vài nhà báo Tiền phong gần đây đã thấy có dấu hiệu là đã bị “ dằn mặt “…

Báo lề phải bây giờ chỉ còn Vietnamnet là vẫn “máu” chiến đấu, gần như ngày nào cũng có bài viết đụng đến chuyện nọ chuyện kia, rất nhiều bài người đọc cũng cảm thấy lo cho Tổng Biên tập.
Vietnamnet có lẽ là tờ báo điện tử có tỷ lệ bài đưa lên và hạ xuống nhanh và nhiều. Song trong cái thời buổi thông tin điện tử thì chỉ cần đưa được lên mạng dăm phút là “xong việc ”.
Rất nhiều độc giả cho rằng: trong tình hình thúc thủ của báo “ lề phải “ hiện nay, kể làm báo được như Vietnamnet, như Nguyễn Anh Tuấn là giỏi, là can đảm, là có tâm với nghề với thế sự. Nếu người đọc được quyền bình chọn, vinh danh những anh hùng trong lĩnh vực thông tin truyền thông, ( lúc này nhân dân rất cầnm các anh hùng xả thân trong lĩnh vực này ) nhiều cư dân mạng chắc sẽ bầu chọn cho Tổng Biên tập Nguyễn Anh Tuấn: anh hùng của cái thời thông tin đang có nhiều vấn đề.

Một tổng biên tập đã thở dài buồn chán khi bị chủ blog thỉnh thoảng lại gọi điện hỏi ông về tình hình báo chí dạo này có bài nào bị nhắc trong giao ban không, cò bị xử phạt, tuýt còi nhiều không?
Ông cho biết, bào chí lề phải dạo này có gì mà phải nhắc tuýt còi, an phận thúc thủ hết cả rồi. Mặt khác các cơ quan chức năng quản lý báo chí cũng bắt đầu tinh tế hơn, khôn ngoan hơn, nhã nhặn hơn, lịch duyệt hơn; báo nào có bài vở nào đó cần nhắc, cần lưu ý thì không đem công khai ra giao ban mà nhắc qua cơ quan chủ quản. Giám sát, nhắc nhở báo chí cách này vừa mang lại hiệu quả, lại kín tiếng, kín võ, một kiểu “ ném đá giấu tay “…Đố Tổng Biên tập nào dám ho he với chủ quản của mình…

Đối với giới nhà văn thì sao, hiện nay trên thế giới mạng có vài trang mạng rất được bạn đọc chú ý, hàng ngày có số lượng bạn đọc truy cập khá đông, nghiêng ngửa với các tờ báo lề phải, đó là trang mạng của 2 nhà văn Nguyễn Quang Lập, của Trần Nhương và thỉnh thoảng có cả Nguyễn Trọng Tạo; đó là những trang do các nhà văn làm và cập nhật thông tin về những chuyện thế sự mà báo lề phải ngại ngần, né tránh…

Trở lại hiện tượng, ( chuyện đáng lẽ phải là bản chất ) đó là giới nhà văn trong những tuần, tháng gần đây bắt đầu chú ý viết về các vấn đề thế sự, những vấn đề mà thường họ hay bàn tán nhiều, mạnh ở những quán trà, quán nhậu.
Đáng chú ý đó là tờ báo Văn Nghệ, một cơ quan nổi tiếng về sự cẩn trọng, “đi sau, về sau” trong các chuyện thời thế mà chỉ chăm chăm vào các vấn đề văn chương chữ nghĩa thuần túy, viển vông. Phải chăng vì thế mà Văn Nghệ bị bạn đọc xa lánh dần và rơi vào thảm cảnh chợ chiều.
Báo Văn Nghệ số 45 ra ngày 6/10/2010 đăng bài: Bô-xít-Những điều được và mất đã đưa được lên báo giấy những ý kiến sau đây kể cũng đáng quý:”Tạm dừng dự án bô xít như kiến nghị của đại đa số nhân dân, có thể sẽ là giải pháp không mấy dễ chịu. Sẽ có nhiều thiệt hại, mất mát. Tuy nhiên nếu biết coi những mất mát đó là những bài học kinh nghiệm trước ngưỡng cửa của hội nhập thì chúng ta sẽ không chỉ sẽ giữ được tài nguyên cho đất nước, mà thêm vào đó lại được rất nhiều. Được sự từng trải, được cách tư duy, được sự minh bạch, được cách ứng xử… Và cái được lớn hơn tất cả chính là được lòng tin của nhân dân, điều mà bất kỳ người lãnh đạo nào cũng cần phải có…”

Tiếp tục bám theo giòng thế sự, Văn Nghệ số 46 có 4 bài, đó là bài: Ai có lương tâm hãy lên tiếng… của nhà thơ Dương Thuấn in trên trang nhất trong mục Tiếng nói nhà văn. Dương Thuấn đã lên tiếng:” Ai sẽ chịu trách nhiệm về Tập đoàn Vinashin sụp đổ. Người nào có lương tâm đều không thể không lên tiếng…”

Không chỉ đề cập tới vụ Vinashin, nhà thơ Dương Thuấn, một người dân tộc Tày, sinh ra và lớn lên với rừng bức xúc trước việc Chính phủ cho nước ngoài thuê rừng với giá rẻ mạt, ông viết:” Vậy tại sao Chính phủ không tăng cường đầu tư cho việc trồng rừng để hàng năm giảm bớt lũ lụt mà lại đầu tư cho đóng tàu thải ra nhiều rác thải độc hại…
Nếu Chính phủ đầu tư cho các chủ rừng được vay vốn trồng rừng thì đâu có chuyện cho nước ngoài thuê rẻ như vậy. Bản thân tôi cũng có 11 ha đất rừng nhưng cũng giống như bao người có đất rừng khác đều rất thiếu vốn để đầu tư trồng rừng…” Nhà thơ Dương Thuấn kiến nghị:” Tôi xin đề nghị các đại biểu hãy phát huy vai trò của Quốc hội để làm rõ vai trò của Chính phủ đối với vụ Vinashin”.

Bài Lỗi tại ai của Bồng Lai…đề cập tới những nghịch lý, phi lý trong các chủ trương chính sách đầu tư phát triển công nghiệp của nước ta. Với những dự án sực nức “phẩm màu” bánh vẽ như Vinashin, như ngành công nghiệp ôtô…Nếu Vinashin đã sụp đổ thì ngành công nghiệp ôtô đang có nguy cơ cao vì đang phát triển giống như chiếc xe phải chạy trên những cua đường gấp khúc, đèo dốc, hiểm nghèo nhưng người cầm lái ( Các doanh nghiệp phần lớn là của nhà nước ) vừa chưa thuộc đường lại chưa thạo tay lái nhưng lại liều lĩnh và bất chấp…

Trong bài Góp ý Dự thảo văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI của Nguyễn Đăng Phúc có tiêu đề: Thực thi dân chủ đã đề cập đến vai trò dân chủ, phải đảm bảo cho người dân được có tiếng nói của mình bởi “nâng thuyền và lật thuyền cũng là dân”.

Tiếp tục với chủ đề dân chủ, nhà thơ Thạch Quỳ trong bài Nên học tập Bác như thế nào, ông có nhắc đến bài báo của nhà văn Vũ Tú Nam viết trên Văn Nghệ đề nghị in hàng vạn, hàng triệu bản cuốn sách Sửa đổi lề lối làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh để giao tận tay cho các cán bộ từ trung ương đến địa phương…
Khi đề cập tới chuyện này, Thạch Quỳ đã nhắc tới một câu chuyện thú vị có thật mà ông biết:” Báo Tiền phong, Lao động và một số tờ báo khác viết bài vạch tội một kẻ lừa đảo chuyên móc nối với quan chức làm các dự án ma. Khi tên lừa đảo này về tỉnh nọ, nghe tin lập tức có nhà văn rất sốt sắng, sợ quan chức địa phương chưa đọc báo liền ôm cả mấy chồng báo đến trình với đồng chí quan chức có trách nhiệm nhất “ trong việc duyệt dự án…Nhà văn được đón tiếp chu đáo, được bắt tay, được khe ngợi, được đồng chí quan trọng đó cho xe đưa về tận nhà. Một tuần sau, “ dự án ma “ Đasuko được ký kết …” Xong việc ký kết, anh thư ký của đồng chí quan trọng đó bắn tiếng qua một nhà văn khác với nhà văn kia rằng:” Nhà văn các cậu thật là hồn nhiên”…

Nhân chuyện nhà văn Vũ Tú Nam đề xuất in sách, nhà thơ Thạch Quỳ nhắc đến ý kiến của Đại biểu Quốc hội Lê Duy Nguyên:” Cha ông ta nói “ chó treo, mèo đậy “, ta cần thử xem của cải của ta treo đã cao chưa, đã kỹ chưa ? Nếu treo chưa cao, đậy chưa kỹ thì phải sửa ở cách treo và cách đậy. Nếu treo cao rồi, đậy kỹ rồi mà vẫn bị chó mèo quấy nhiễu thì phải có cái dùi”… Tóm lại, trong bài viết của mình, Thạch Quý đã đúc kết ra 2 bài thuốc canh, trị “ chó, mèo”:
Cách 1 của nhà văn Vũ Tũ Nam: Cho in nhiều sách của Bác Hồ;
Cách 2 của Đại biểu Quốc hội Lê Duy Nguyên: Sắm cái dùi to…
Kết thúc bài viết ngắn của mình, Ông đồ Nghệ Thạch Quỳ chuyển tới nhà văn Vũ Tú Nam ý kiến sau đây:” Tôi luôn coi nhà văn Vũ Tú Nam như bậc đàn anh cả trong làng văn. Nhà văn đọc nhiều trước tác của Bác, mong nhà văn chọn cho một câu nói tiêu biểu để đề xuất với Đảng làm khẩu hiệu trung tâm của giai đoạn cách mạng hiện nay. Tôi mạo muội hỏi riêng ý kiến nhà văn Vũ Tú Nam, nếu chọn câu:” Nước độc lập mà dân không có tự do, hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng nghĩa lý gì… có được không ???”

Hoan nghênh Văn nghệ đã bắt đầu nhúc nhắc làm cái việc của những kẻ thất phu.Cũng đề cập tới vấn đề dân chủ, một vấn đề bức xúc hiện nay, nhà thơ, đồng thời là PGS-TS Vũ Duy Thông trong bài không rõ thể loại gì đăng trên báo điện tử Chính phủ. Đây là một bài phỏng vấn hay là những ý kiến nhặt nhạnh, bài viết của phóng viên Việt Hải và ghép tên PGSTS VDT vào để cho có thương hiệu, nhãn mác, đó là bài:” Chất vấn và trả lời chất vấn phải có tình, có lý…
Khi đề cập tới vấn đề dân chủ, ý kiến mang tên PGS-TS Vũ Duy Thông ( PGS-TSVDT ) rào đón:”Thực hiện quyền dân chủ là một quá trình vận động gian khó và lâu dài, cả hệ thống chính trị và từng người dân phải góp công sức, trí tuệ từ nhận thức về quyền dân chủ, nâng cao trình độ để có thể thực hiện đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong việc thực hiện quyền dân chủ.

Thực hiện quyền dân chủ (bao gồm cả mở rộng dân chủ và nâng cao quyền dân chủ) là một tồn tại xã hội, phải biết đòi hỏi nhưng cũng phải biết chờ đợi; vừa thể chế hóa nhưng cũng rất cần vận động, thuyết phục.
Cần khắc phục khuynh hướng không sử dụng đầy đủ quyền dân chủ và cả khuynh hướng lợi dụng hoặc tùy tiện sử dụng quyền dân chủ…”Theo PGS-TSVDT thì phạm trù “mở rộng thực thi quyền dân chủ” và phạm trù “tránh khuynh hướng lợi dụng và tùy tiện sử dụng quyền dân chủ…” phải song hành với nhau.Từ điểm xuất phát này, PGS-TSVDT đã lên tiếng về một thực trạng tại diễn đàn Quốc hội:”Tuy nhiên, những ý kiến hỏi và trả lời đó không cùng chất lượng như nhau, còn có một số ý kiến mới dừng lại ở cảm tính, chưa được xác minh. Vậy có cách nào để những thông tin đó khi vượt ra khỏi Hội trường QH, không ảnh hưởng đến cử tri, cả ở mặt tích cực và tiêu cực…” PGS-TSVDT tiếp tục đẩy xa vấn đề mà mình đặt ra:”Có đại biểu cả khóa không một lần phát biểu nhưng có đại biểu kỳ họp nào cũng phát biểu, thậm chí thảo luận về vấn đề gì cũng phát biểu, đi rất sâu vào chuyên môn dù chuyên môn đó rất xa với chuyên môn gốc của họ. Không rõ những đại biểu này có phải "cái gì cũng biết" không, nhưng qua phát biểu của họ, nhiều khi cử tri rất băn khoăn.

Trong khi phát biểu, một vài người còn đưa ra những sự kiện, số liệu chưa được kiểm chứng, có tính cảm tính, suy diễn chủ quan, hiểu biết về luật không thật đầy đủ…”Sau khi phân tích dẫn giải những ý tứ trên PGS-TSVDT, khóa trái vấn đề:”Việc đưa ra những nhận xét, chất vấn trong các kỳ họp QH là quyền của các đại biểu QH, nhưng khi những ý kiến ấy đến công chúng thì hiệu ứng của nó không còn theo ý chủ quan của người nói nữa. Nói cho đủ, còn để dành thời gian cho người khác. Nói cho khách quan, không né tránh nhưng với một thái độ xây dựng. Dân mình có câu: "Lời nói không mất tiền mua, liệu lời mà nói cho vừa lòng nhau”. “Vừa lòng nhau”, tức là giữa những người đối thoại với nhau phải rõ cái tình (có tính trách nhiệm, xây dựng), cái lý (khoa học, hiểu biết, rõ ràng); “Vừa lòng nhau”, còn có nghĩa là phải có tác dụng tích cực đối với những người thứ ba, là đông đảo công chúng nghe mà thấy thẳng thắn, thuyết phục, nghe xong không còn u mê, chán nản, hoài nghi, càng vững tin vào những điều tốt đẹp của cuộc sống…”
Xin làm rõ thêm ý kiến của PGS-TS VDT: Phương đông có 2 mô hình quản trị nhà nước, đó là Pháp trị và Đức trị…Trong ý kiến của PGS-TS VDT đã đưa thêm một mô hình quản trị nhà nước đó là mô hình “ Tình trị “…Phải đặt cái Tình đi trước, cái Lý là cái cuối cùng chăng?
Đề nghị các trường, các viện chuyên nghiên cứu về chính trị về kinh tế học và cả PGS-TS VDT nên làm rõ thêm khái niệm, mô hình quản trị mới này.


Còn người viết bài này hiểu cái mô hình tình trước, lý sau là phương thức xử lý trong các giòng tộc, cùng huyết thống, tại những thôn bản làng xã mà kinh tế chưa phát triển, xung đột và cách bức về quyền lợi chưa sâu sắc.
Còn ý kiến của PGS-TS Vũ Duy Thông nếu đem áp dụng cái mô hình này cho cái xã hội mà có kẻ ngồi mát ăn bát vàng, kẻ ăn không hết, người lần không ra là một sự cố súy cho phản tiến hóa, là hợp thức các hành vi trộm cướp, tham nhũng…Có thể nói đây là cái mũ khá bài bàn được PGS-TSVDT đưa ra để chụp cho những ý kiến của các đại biểu có các ý kiến:” đưa ra những sự kiện, số liệu chưa được kiểm chứng, có tính cảm tính, suy diễn chủ quan, hiểu biết về luật không thật đầy đủ…

Người đọc bắt đầu nhận ra cái khẩu khì hình sự hóa vấn đề trong ý kiến phát biểu của ông nhà thơ mang danh Phó Giáo sư-Tiến sĩ…Tại sao khi có ý kiến nào đó phát biểu trên diễn đãn Quốc hội, những vị phải trả chất vấn họ có ngô ngọng gì, họ phần lớn đều là ủy viên trung ương Đảng, là các Bộ trưởng sao không chứng minh công khai trước toàn dân rằng cái ý kiến chất vấn kia là sai là “đưa ra những sự kiện, số liệu chưa được kiểm chứng, có tính cảm tính, suy diễn chủ quan, hiểu biết về luật không thật đầy đủ” như PSSTS VDT nói…Cứ cho là họ ngại va chạm,sợ mất mặt người chất vấn, sao không cho các chuyên gia như PGSTS VDT viết bài, chứng minh, đập lại bằng các luận chứng rằng đó là các ý kiên, số liệu cụ thể chứ quy chụp như ý kiến trong bài trên thì chụp cho ai mà chẳng được ?!
Xin lứ ý, PGS-TSVDT là một nhà thơ, một nhà báo, các học hàm học vị của ông gắn với cái nghề này chứ ông không phải là một nhà làm luật chuyên thiết kế các mô hình quản trị xã hội…Người đọc đồ răng những ý kiến trên do ai đó viết hộ ông rồi ông chỉ ký tên điểm chỉ vào để hợp thức nó hoặc có thể ông phát biều những vấn đề mà thực chất ông không biết, không hiểu, một dạng “ ăn theo nói leo “…
Chỉ xin lưu ý một điều, nếu ông là người làm báo cẩn trọng, có trách nhiệm thì ông đã ngăn không để cái tin tàu Trung Quốc vào tập trận trên vùng biển Việt Nam lọt vào Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, khi ông nắm trọng trách Phó Tổng Biên tập. Cùng thì ông Đào Duy Quát và tay đánh máy chịu trận.


Một nhà văn cũng chịu khó bám theo các chuyện thế sự đó là Giáo sư-Tiến sĩ, nhà văn Mai Quốc Liên mà vừa qua blog Phamvietdaonv có dẫn ra vài bài đăng trên Tạp chí Hồn Việt do ông làm Tổng Biên tập…

GS-TS Mai Quốc Liên người vẫn luôn vỗ ngực tự xưng mình là “vệ binh cuối cùng” của chế độ đã cho đăng trên Tạp chí Hồn Việt 2 bài mà theo như thanh mình thì đây là việc giống như cái việc mở cửa cho kẻ cướp vào nhà để bắt và trị sau. Dư luận chờ xem trong số tới Hồn Việt sẽ tung cái miếng võ đà đao, tóm bắt cái đám “ âm binh “ do Hồn Việt tung ra như thế nào? Hay chẳng qua đây là cách nói trí trá ngụy trang cho hành vi “ trở cờ “ bị bắt quả tang của gã vệ binh cuối mùa !

P.V.Đ

Nguồn :http://vn.360plus.yahoo.com/phamvietdaonv/article?mid=6856

HỢM HĨNH



Có entry này vì đúng là câu chuyện thời sự viết ra đây đúng nghĩa hợm hĩnh trong cái chung và cái riêng diễn tiến một cách bất thường giữa cuộc đời rất bình thường, chứ không vì chuyện riêng tư.
Hơm hĩnh vì cũng như bao nhiêu câu chuyện đời thường khác của một công chức thôi việc, không hơn không kém, nhưng được đẩy lên thành một cao trào.
Hợm hĩnh vì qua câu chuyện này cho chúng ta thấy được một hệ thống truyền thông mất phương hướng thì từ một câu chuyện bình thường cũng trở nên sự kiện tốn giấy mực.
Hơm hĩnh vì về nhân tướng học tôi không cho rằng người trong cuộc lại đức trọng, tài cao như truyền thông tô vẽ.
Hợm hĩnh vì đã là đường đường có học vị cao nhất ở trời Nga, và đã ngũ thập tri thiên mệnh, nhưng người trong cuộc mới vỡ lẽ một cách cay cú cảnh cá chậu chim lồng qua
một bài thơ:

CÓ MỘT NGÀY
Có một ngày
Rời chậu cảnh, cây ra ngoài đất bãi
Đất cằn hơn và bãi rộng hơn
Có một ngày
Không vui sướng cũng không ngần ngại
Tôi rẽ vào ngả đời
Gập ghềnh hơn mà thanh thản hơn!
Tết này có ai cho rượu ngoại?
Càng thấu tình men lá rượu ngô trong
Xuân này thôi họp hành lễ lạt
Cha dắt con đi chơi non biếc nắng hồng
Giờ như bao chú cô bác khác
Cha loay hoay tìm việc để nuôi con
Chút gian khó CỦA đời cha sẽ nếm
Để gần hơn bao thân phận mất còn!

Trần Đăng Tuấn - Hà Nội, 3/11/2010

Ô hay, cây ra khỏi chậu kiểng là cây có thể thấy đất dưới chân mình rộng, sâu chắc?
Càng hơm hĩnh hơn hôm nay người trong cuộc lại lên truyền thông đại chúng để
nói một lần duy nhất về việc rời VTV!
Ô hay thế từ 2 tháng nay "cây kiểng" không nói gì? Nhưng khi làm cú gúc với keyword: Trần Đăng Tuấn từ chức, chỉ trong 19% giây đã có đến
8.140.000 lượt đưa tin cơ đấy!
Rõ chẳng bõ bèn cho một người xin thôi việc có tâm nhỉ?

Xin thưa: Có mợ hay không có mợ thì chợ vẫn đông! Đặc biệt cái chợ này lắm thức ăn cho sâu mọt.
Con người là gì vậy? Tựu trung cũng chỉ là cục đất. Nếu đám đông vô thức được định hướng tung hê thì có thể đúc tượng đặt lên bàn để thờ. Nhưng nếu bị đám đông vô thức định hướng ngược lại thì, có thể nặn thành cái lavabo có khác gì?

Thiết nghĩ, ở xã hội Việt Nam ngày nay không thiếu người tài thực sự. Những người tài thực sự nếu chọn kiếp làm thuê họ đã biết từ bỏ "chậu cảnh" để ra "đất bãi" từ khi là kinh tế thị trường hoang dã với đồng lương ngất trời. Còn nếu thực sự là tài năng mà, chọn kiếp làm chủ họ cũng đã từ bỏ "thế giới vàng" rất sớm để ung dung tự tại sống bằng sức lực thực sự của mình. Không cứ gì phải đợi mãi ngũ thập tri thiên mệnh và mãi hơn 20 năm cỡi trói mới "tri chuyện cây kiểng, cây hoang".

Và thực sự có gì hay trong câu chuyện của một công chức rời chỗ làm việc này sang chỗ làm việc khác mà phải ầm ĩ lên thế kia?
Có phải vì nền truyền thông mất phương hướng như chuyện VTV của ông Tuấn đem cháu Vàng Anh Hoàng Thuỳ Linh lên chiếm thời lượng phát sóng gần cả giờ đồng hồ nói nhăn, nói cuội để định hướng cho lớp trẻ làm gương?

Đúng là hợm hĩnh ở một nơi mà truyền thông không còn thực hiện vai trò chân chính. Với truyền thông đại chúng như thế này thì hy vọng gì có những thế hệ đủ tầm tiếp nối, kế thừa lo toan cho quốc gia dân tộc?

Quê tôi có câu tục ngữ rất hay: "Trời suy, quỷ lộng/ Đất động, chó tru". Nghĩ mà thấm thía cái sự đời.


Nguồn :http://bshohai.blogspot.com/2010/11/hom-hinh.html

29 thg 11, 2010

Thơ Bùi Minh Quốc tặng Quốc Hội

NGHỊ TRƯỜNG LÀ MẶT TRẬN

Tôi thích làm thơ về những gì cũ xưa muôn thuở
cũng khoái làm về những chuyện mới toanh
cũ như Tình yêu
mới như Tình yêu
cũ như Tự do
mới như Tự do
Tự do
trên đất nước tôi hôm nay vẫn luôn là mới rợi

*
Đổi mới
vui sao
trước hết trở về điểm cũ
dòng chảy muôn xưa kinh tế thị trường
Thị trường là chiến trường
và nghị trường
thành mặt trận

*
Nhớ
nhớ
em gái Cà Mau dõng dạc giữa Ba Đình
vạch tội lũ gian manh
đến bây giờ em vẫn là thiểu số

*
Ôi lẽ phải của nhân dân lầm than và phẫn nộ
ở chốn này lại thành thiểu số
đất nước ta người tử tế rất nhiều
Đảng ta đồng chí tốt còn nhiều
nhưng tử tế giữa công quyền lại luôn thiểu số

*
Khi để bàn tay bẩn gắn huân chương
những bộ ngực hằn vết thương trăm trận
chỉ còn loè loẹt hư vinh
và loe loét đau vết nhục

*
Kìa những kẻ đi ngược đường dân tộc
dám nhơn nhơn cắm biển vạch lề

*
Thi sĩ-chiến sĩ kèn mồm cuối trận rúc ti toe
vội lủi nhanh về chạy chân ông nghị
và gật gù ra điều suy nghĩ :
“gay go lắm
phức tạp lắm
nhạy cảm lắm”…
môi mép cà lăm
miệng ngậm dài dài


*
Tháng 5 cháy
Tây Nguyên
bùn đỏ sục ngầu lên
một trời đỏ gắt
xe ủi Tàu hùng hổ dũi lật
bùn đỏ Tây Nguyên hắt lửa tận Ba Đình
các lão tướng bách niên ra trận


*
Tháng 5 cháy
Tháng 5 Điện Biên
Tháng 5 sinh nhật Bác
càng nhắc lòng càng rát
bùn đỏ sục ngầu lên
bùn đỏ Tây Nguyên rát mặt Ba Đình
thương Bác nằm ngộp thở khói bùn tanh


*
Thị trường là chiến trường
nghị trường là mặt trận
ra đường làm luật
vào hội trường lách luật


*
Tháng 5 cháy
lửa táp Tây Nguyên xanh
khói lùa chuột nhảy
chuột bố nghểnh râu ra oai chữa cháy
chuột con sập bẫy tự gài

*
Tháng 5 cháy
hội trường vẫn mát
nhiều mặt phây phê chợt tái chợt hườm
lưỡi ngắn lưỡi dài thò thụt
những vòng vo tam quốc kiếm đường quanh

*
Tháng 5 cháy
dù đâu đó đâu đây bùn đỏ sục tanh bành
chốn này luôn cứ mát
lưỡi lưỡi múa lên
thi nhau múa
thi nhau uốn
múa
uốn
cốt làm sao giấu nhẹm con tim

Nhưng
đang dần phơi lên
phơi lên
phơi lên
tim nào vì nước vì dân thật
tim nào đen quánh bùn đen.

Đà Lạt 31.05.2009
BMQ
Nguồn :http://nguyentrongtao.org/2010/11/28/th%c6%a1-bui-minh-qu%e1%bb%91c-t%e1%ba%b7ng-qu%e1%bb%91c-h%e1%bb%99i/

28 thg 11, 2010

NỔ - 2

Chí Kim táng Lý Bắc và hành động của chúng ta.

Vài bạn kêu gào anh Lãng cho ý kiến chỉ đạo về tình hình Triều Tiên. Việc dân việc nước bộn bề, anh nêu dăm ý kiến ngắn như sau:

Các bạn đánh giá vấn đề cần có độ tỉnh táo và lạnh lùng mà phân tích. Vài trăm phát pháo Bắc Hàn nã chẳng qua chỉ là vấn đề nội bộ của bố con họ Kim. Giải pháp gây căng thẳng biên giới để kiểm soát nội bộ của Kim con trong tiến trình chuyển giao quyền lực là một trò đùa mạo hiểm, nhưng không đủ gây chiến tranh.
Ở đây Kim con đang muốn tái hiện hình ảnh của Kim ông nội, bằng cách coi các hành động gây hấn tấn công lực lượng Nam Hàn như những "chiến công" cho sự nghiệp củng cố quyền lực cai trị tại Bắc Triều Tiên. Làm đại tướng thì ít nhất cũng cần dăm "chiến tích". Đây là lý do thực của những diễn biến căng thẳng tại Triều Tiên hiện nay. Tình hình này sẽ tiếp tục dẫn đến can dự mạnh hơn của Mỹ vào khu vực. Nhật sẽ đẩy mạnh quá trình tái vũ trang.

Ở phía bên kia của nền văn minh, những nước có quyền lợi liên quan trực tiếp nhất đến bán đảo Triều Tiên là Nhật, Mỹ, Hàn. Một điểm chung là các nước này giàu, quý trọng sự sống, và hiểu rằng họ đang phải đối phó với một thằng khùng có trong tay vũ khí hạch tâm. Phản ứng của Mỹ, Hàn do đó sẽ ở mức kiên quyết nhưng có giới hạn và kiềm chế.

Ở phía bóng tối của sự nghèo đói, mặt khác, triều đình của Kim bố, Kim con hiện tại cũng không phải là những thằng đần, dù rằng chính thể Triều Tiên hiện tại vẫn đang thành công trong nỗ lực ngu hóa và làm thoái hóa giống nòi người dân sống tại Bắc Triều Tiên. Là vua một nước thì bất kể dân chết đói hàng ngày, vua vẫn sống trong nhung lụa. Triều Tiên nhiều sâm, gái chịu khó tuyển thì cũng lắm đứa ngon, do đó, các bạn phải hiểu Kim bố, Kim con còn yêu đời và mong sống lâu lắm.
Do đó, bản thân Kim con cũng sẽ tự biết đâu là giới hạn còn chấp nhận được để duy trì mạng sống của mình. Một cuộc chiến Triều Tiên tổng lực xảy ra, anh tin chắc bố con nhà Kim hiểu rõ họ sẽ không có cơ hội dùng đến vũ khí nguyên tử, bởi nếu Mỹ, Hàn bị ép vào thế buộc phải ra tay, đòn tấn công sẽ là triệt hạ hủy diệt trước khi Kim có khả năng giộng nguyên tử vào Mỹ và đồng minh của nó.

Thật ra khi quan sát tình hình Triều Tiên, anh từng đặt ra câu hỏi: Liệu có khả năng Kim con hiện đang chịu sự chống phá mạnh từ bên trong, và có thể những sự kiện như chìm tàu Chongnan hay pháo kích Nam Hàn là những diễn biến nằm ngoài tầm kiểm soát của Kim con, do thế lực nội bộ chống đối bên trong muốn gây rối loạn Bắc TT và lật đổ triều đình họ Kim. Đây sẽ không phải là một sự phỏng đoán nếu hiện tại Kim bố đang nguy kịch, thoi thóp và chờ ngày chết. Nhưng sự thực là Kim bố vẫn có khả năng ngọ ngoậy, và với kinh nghiệm cai trị 30 năm tại Bắc TT thì chắc chắn quyền lực vẫn nằm tuyệt đối dưới sự khống chế của họ Kim. Giả thuyết này, vì thế không có cơ sở thực tiễn.

Diễn biến tại Triều Tiên, do đó, tất yếu sẽ nằm trong khuôn khổ của những phản ứng hạn chế, khi những người trong cuộc đều biết đâu là giới hạn của vấn đề.Chiến tranh thế giới đéo nào ở đây?

Điều tích cực của tình hình là biến chuyển khu vực tiếp tục có lợi cho Việt Nam. Niềm hy vọng của dân Nam Hàn vào đám dân đồng chủng tộc nhưng đã được ngu hóa gần triệt để trong 50 năm qua sẽ ngày một ít đi. Đầu tư của Hàn do đó sẽ ít có hy vọng hướng vào miền Bắc. Do đó, luồng vốn này sẽ tiếp tục đổ về Đông Nam Á, mà Việt Nam hiện cũng có những lợi thế cạnh tranh.

Đông Á bất ổn, khiến sức chú ý của Mỹ và đồng minh càng tập trung hơn vào khu vực. Quan hệ giữa Mỹ, Nhật, Hàn sẽ được đẩy lên một nấc mới. Trong viễn cảnh sống chung với Bắc Hàn, cả Nhật, Hàn đều thấy sự sinh tồn của họ gắn liền với Mỹ. Điều này càng khiến Trung Quốc chịu áp lực mạnh trong tương lai.

Mặt khác thì Nhật Bản chắc chắn sẽ tiếp tục đẩy mạnh tái vũ trang. Trước hết là để duy trì sức mạnh răn đe vì dù sao Nhật cũng không thể phó mặc sinh mệnh sinh tồn cho Mỹ. Điều này về ngắn hạn thì có tác dụng kiềm chế Triều Tiên, nhưng về dài hạn thì lại là mối đe dọa trực tiếp đến mọi dã tâm của Trung Quốc. Hơn nữa, tái vũ trang có lẽ cũng là một cách hiệu quả kích cầu với nền kinh tế Nhật, bởi suất đầu tư nhiều lĩnh vực khác của Nhật Bản đã đạt tới bão hòa

Với Trung Quốc, sự hung hăng của Triều Tiên sẽ tiếp tục là những cú thôi sơn khiến quốc gia này liên tiếp gặp vận rủi. Thế giới giờ đây nhìn Trung Quốc như một thứ quái vật hung hăng với tiềm năng đe dọa hòa bình. Không phải tự nhiên mà tính vỏn vẹn từ tháng 06/2010 đến nay, Trung Quốc liên tiếp đưa ra lời tuyên bố “Trung Quốc phát triển hòa bình và không đe dọa ai”. Theo thống kê của anh, thì cả Hồ Cẩm Đào, Ôn Gia Bảo và một loạt quan chức cao cấp nhất của Trung Quốc đã đưa ra tuyên bố này không dưới 10 lần.

Điều khiến anh Lãng thích thú, là Trung Quốc càng tuyên bố về hòa bình, thế giới càng không tin. Hiện tại mà nói, Trung Quốc đã quá đau đầu vì những phản ứng bất lợi của các nước trong khu vực và thế giới trong nỗ lực chống lại dã tâm thôn tính của Trung Quốc tại biên giới Ấn Độ, vùng biển Đông Á và biển Đông Nam Á. Giờ đây Triều Tiên tiếp tục tọng vào họng Trung Quốc một khúc xương. Nếu hậu thuẫn Bắc Hàn (điều chắc chắn TQ phải làm), hà hơi cho triều đình phong kiến cha truyền con nối của họ Kim tiếp tục tồn tại, Trung Quốc sẽ tiếp tục duy trì một quân bài lợi hại để kiểm chế Mỹ, Nhật và đồng minh tại khu vực Đông Á. Điều này cần cho chiến lược của Trung Quốc, như một quân bài đối trọng với lá bài Đài Loan của Mỹ.

Nhưng sự hung hăng của Triều Tiên càng khiến thế giới thêm ác cảm và coi Trung Quốc, thế lực hậu thuẫn cho sự sinh tồn của Triều Tiên là một mối đe dọa hòa bình. Trung Quốc không được gì thêm khi tiếp tục hậu thuẫn Bắc Hàn, mà lại càng mất đi nhiều thêm khi nỗ lực muốn tạo ra vỏ bọc một quốc gia thân thiện càng đi vào vô vọng. Mặt khác, nếu ra mặt gây sức ép mạnh với Bắc Triều Tiên, đến đường cùng chỉ khiến cho bố con anh Chí nổi điên, hoặc họ Kim sẽ tìm đường ngả về phía Mỹ, Hàn nhanh hơn (đây sẽ là ác mộng với Trung Quốc), hoặc thậm chí bố con nhà chí Kim sẽ quay lại xỉa cho cụ Bá Trung Quốc một nhát dao cũng chưa biết chừng.

Nói chung Hồ Cẩm Đào và bộ sậu về cơ bản ngu hơn anh Lãng, nhưng cũng không phải bọn đần. Trung Quốc do đó sẽ tiếp tục phải thu liễm dã tâm, tìm cách trụ qua cơn sóng gió.

Tình hình, về cơ bản, có lợi cho sự nghiệp cách mạng kháng Khựa của nhân dân ta. Đây là lúc các bạn cần hướng sự chú ý vào những vấn đề nội tại của Việt Nam.

Những vấn đề rất lớn về tương lai quốc gia đang tiếp tục được các thế lực chính trị cân nhắc hàng ngày trong võ đài sắp xếp nhân sự trong kỳ đại hội này. Nói chung, chúng ta cần quan tâm đến những thứ gắn trực tiếp với tương lai phát triển của Việt Nam hiện nay, chứ không cần quan tâm nhiều đến những diễn biến bên ngoài, vốn tự thân nó đang diễn biến có lợi cho Việt Nam.

Khi đối thủ đe dọa trực tiếp đến Việt Nam đang lúng túng như gà mắc tóc, chúng ta cần tranh thủ âm thầm đưa đất nước đi lên. Do đó, chúng ta cần hướng sự chú ý vào những vấn đề nội trị của Việt Nam. Sức mạnh quốc gia, tương lai dân tộc, đều nằm ở tiến trình đi lên của nền kinh tế nội tại chứ không phải là những diễn biến bên ngoài.

Phần anh Lãng, đã quá chán ngán với 4 năm cai trị sai lầm nặng nề về phát triển kinh tế của triều đại Nguyễn Tấn Dũng. Mặc dù keo đấu giữa Dũng và Sang vẫn đang tiếp tục nhì nhằng, nhưng anh nghĩ Dũng bạn thân anh nên dũng cảm lui về vị trí chủ tịch nước. Bạn anh có thể làm tốt ngoại giao chính trị, đại diện cho bộ mặt quốc gia, điều mà bạn thân anh đã làm rất tốt trong năm 2010, chứ không nên tiếp tục can dự sâu vào vai trò định hướng chiến lược phát triển đất nước, điều mà bạn anh đã bộc lộ rõ sự yếu kém trong suốt 4 năm qua.

P/S: Con mẹ nó, vốn đang lúc bận rộn anh Lãng không định gõ phím dài. Nhưng vì khai sáng cho các bạn mà đã không làm thì thôi, hễ giáo huấn là anh đành làm cho trọn ý. Làm lãnh tụ mà yêu dân đúng là quá khổ. Đến giờ anh lại càng thấu hiểu nỗi khổ của cụ Mác, cụ Lê, cụ Wasington, cụ Hitler và các bậc tiền bối rậm râu bạn cũ nhưng nay đã tạch của anh Lãng

Nguồn :http://vn.360plus.yahoo.com/lyxuonglong/article?mid=2613

Xem :
NỔ - 1 tạ đây

BÍ MẬT HỒ CHÍ MINH?


Xem tivi biết tin ông Hoàng Tùng, nguyên bí thư Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, nguyên tổng biên tập báo Nhân Dân vừa qua đời (19.6.2010), tôi chợt nhớ có lần được đọc một phần hồi ký của ông viết về Hồ Chí Minh, người mà ông có nhiều dịp gần gũi, nhưng đoạn 10 nỗi đau của Bác Hồ thì chỉ có 8. Sau đó, ông Hoàng Văn Dzư trao tôi mấy trang chép tay hồi ký của ông Hoàng Tùng có chữ ký tặng của tác giả. Theo ông Dzư thì ông Hoàng Tùng bảo rằng “Mười nỗi đau của Bác Hồ mà tôi chỉ công bố có 8. Còn 2 nỗi đau đó là: Chết nhiều quá, và trong BCT cũng chưa thật đoàn kết”. Giờ tư liệu đó không mang theo, nên tôi chỉ đăng lại phần hồi ký của ông như đã được truyền tụng



Vì quan hệ của ta với Trung Quốc và Liên Xô không được thuận tiện, cho nên khi chính quyền của ta được thành lập thì hai nước đều không công nhận. Trung Quốc thì quan hệ không chính thức. Hai người sang ta đầu tiên nhân danh Đảng mà cũng là Đảng địa phương thôi, đó là Chu Nam và Trang Điền. Một người là chính uỷ, một người là tư lệnh quân khu Hoa Nam sang nhờ ta giúp họ tiễu phỉ ở Thập Đại Vạn Sơn. Sau đó ta có cử một trung đoàn do Lê Quảng Ba phụ trách sang Trung Quốc.


Các đồng chí Việt Nam ở Diên An và Trung Quốc sau khi thấy cách mạng Việt Nam thắng lợi thì xin về. Lúc đầu là Nguyễn Khánh Toàn, Nguyễn Sơn, Lý Ban, Trương Ái Dân, Cao Tử Kiến. Trương Ái Dân trong thời gian kháng chiến chống Pháp làm công tác công vận ở Liên khu III do tôi phụ trách. Đồng chí ấy nói với tôi rằng, sau cuộc khủng bố của Pháp năm 1930-31, đồng chí ấy sang Trung Quốc hoạt động cách mạng, được đi Diên An. Trong cuộc vận động chỉnh phong năm 1942-43, đồng chí ấy bị thẩm vấn lí lịch. Người ta hỏi người đứng đầu Đảng Cộng sản là ai, đồng chí ấy trả lời là Trần Văn Giàu, liền bị chôn một nửa người xuống hố sâu. Sau đó không hiểu vì sao được thả. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, đồng chí được về nước cùng với một số người nói ở trên. Cao Tử Kiến công tác ở Yên Bái trong thời gian kháng chiến chống Pháp.

Sau khởi nghĩa ta mở một lớp huấn luyện ở Vạn Phúc cho cán bộ học. Nghe anh Lê Đức Thọ nói lại là đó là Hồng Lĩnh, tức Nguyễn Khánh Toàn, nói chẳng ai hiểu gì cả. Sau tôi nghe mấy người khác nói ông ta là một giáo sư giỏi lắm. Cả Bùi Công Trừng đi học ở Liên Xô về nói cũng thế cả.
Về quan hệ với Liên Xô, tôi biết Liên Xô, nhất là Stalin coi Bác là một người dân tộc chủ nghĩa cải lương từ năm 1928. Sau lại thêm việc Bác bị bắt ở Hồng Kông rồi lại được thả, khiến Liên Xô nghi ngờ. Stalin không hiểu được lại có những người như Loseby. Lại thêm việc Hà Huy Tập báo cáo. Anh Lê Duẩn có nói với tôi là Hà Huy Tập báo cáo với Quốc tế về việc mật thám đưa bà Thanh đi Trung Quốc tìm Nguyễn Ái Quốc và ra nghị quyết phê phán sai lầm dân tộc chủ nghĩa cải lương của Nguyễn Ái Quốc.
Bác đến Liên Xô năm 1934-38 chỉ làm công tác ở Ban thuộc địa của Quốc tế cộng sản, không được giao nhiệm vụ cụ thể. Người được giao nghiên cứu làm luận án phó tiến sĩ về vấn đề thuộc địa. Bác xin được làm nhưng không được trả lời. Người xin về nước. Tại Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ VII, Người không tham gia đoàn đại biểu Đảng ta, chỉ là đại biểu dự thính. Liên Xô vẫn cho rằng Việt Minh là một thế lực dân tộc chủ nghĩa. Họ không thấy Đảng Cộng sản đâu, và vì sao Đảng Cộng sản giải tán. Năm 1948, cả hai nước đều tìm hiểu xem Việt Nam là gì. Đảng ta cử Nguyễn Chương (cùng ở Xứ uỷ với tôi) làm phó cho Lê Đức Thọ sang Xiêm tổ chức lại tổ chức của ta ở đó. Trong khu uỷ của khu bốn, mọi người mâu thuẫn với nhau, mà toàn những lão thành cả như Nguyễn Sơn, Hoàng Văn Hoan, Hồ Tùng Mậu, Trần Hữu Dực. Ông Hoàng Văn Hoan thì nổi tiếng về những chuyện kèn cựa ngay từ đầu. Ta cử Hoàng Văn Hoan bàn với Nguyễn Chương (có thể là do gợi ý của Trung Quốc) là cử Nguyễn Chương sang Trung Quốc để nghiên cứu. Nhưng thực tế Trung Quốc muốn qua Nguyễn Chương để tìm hiểu tình hình Việt Nam. Nguyễn Chương đến Trung Quốc báo cáo tình hình. Phương hướng báo cáo cũng hữu khuynh đúng như họ đánh giá, nói là ta dân tộc chủ nghĩa, đề cao địa chủ quan lại, không nêu cao vai trò của Đảng và liên minh công nông.
Đại diện của Liên Xô ở Praha gặp hai đại diện của ta là Trần Văn Danh và Lê Hy hỏi tình hình. Hai người này nói cũng khớp với Nguyễn Chương nói. Nói khớp như nhau bởi vì chúng tôi lúc đầu nghiên cứu theo cương lĩnh của đồng chí Trần Phú, nghĩa là cương lĩnh thứ hai của Quốc tế Cộng sản, tức là làm cách mạng tư sản dân quyền, lấy công nông làm trụ cột, do giai cấp công nhân lãnh đạo, lập chính quyền xô viết… Chỉ đến khi cách mạng Trung Quốc thắng lợi, Bác trực tiếp sang mới trình bày rõ vấn đề. Việc này tôi không được nghe trực tiếp, nghe anh Lê Văn Lương nói lại.
Khi gặp Bác, Lưu Thiếu Kỳ nói ngay rằng : các đồng chí giải tán Đảng, các đồng chí tưởng lừa được địch, nhưng địch không lừa được mà lại lừa chính chúng tôi, vì chúng tôi hiểu rằng các đồng chí giải tán Đảng thật. Còn địch nó thừa hiểu các đồng chí không giải tán Đảng. Hôm tuyên bố giải tán Đảng tôi không được dự, nhưng nghe nói lại rằng, quyết định này của Bác thật là táo bạo. Lúc đó không làm thế cũng nguy, vì âm mưu của Tưởng là đánh đổ Cộng sản. Với bọn Lư Hán, Tiêu Văn, Đảng Cộng sản tồn tại là nó chết, vì sẽ bị Tưởng trị. Nên ta mới lập mẹo tuyên bố giải tán Đảng, chỉ tuyên bố về danh nghĩa mà thôi, còn trên thực tế Đảng vẫn tồn tại. Khi đưa ra bản tuyên bố giải tán Đảng ở Thường vụ, người không tán thành nhất là đồng chí Trường Chinh. Sau Tưởng không có lí do gì thúc ép khi Đảng đã tuyên bố giải tán.

Sang Trung Quốc, Mao đưa Bác vào quỹ đạo của Mao. Sang tới Liên Xô, Stalin lại đưa Bác vào quỹ đạo của Stalin. Chuyến đi Trung quốc và Liên xô năm 1950 của Bác là chuyến đi gian khổ. Khi đó Stalin nói : Bây giờ cách mạng Trung quốc thành công rồi, Trung quốc có trách nhiệm giúp đỡ các nước phương Đông, cũng như Liên xô có trách nhiệm giúp đỡ các nước châu Âu và châu Mỹ. Trung quốc cho như thế là Quốc tế cộng sản đã phân công Trung quốc phụ trách châu Á. Bám vào ý kiến ấy, sau này Trung Quốc coi như là người đỡ đầu ta. Tôi cho rằng vì lý do đó như thế mà mấy lần Bác từ chối làm Tổng bí thư. Ngoài việc Ban chấp hành Trung ương trong nước chỉ định đồng chí Trường Chinh làm Tổng bí thư, có lẽ Bác cho rằng nếu Bác nhận làm Tổng bí thư thì Liên xô sẽ gây chuyện.

Từ Đại hội Đảng ta lần thứ nhất ở Macao, Hà Huy Tập đã phê phán Bác như Quốc tế cộng sản đã phê. Bác không nhận là chủ tịch nước cũng là thật lòng chứ không khách khí. Sau này anh Lê Đức Thọ nói với tôi rằng khi đề nghị Bác làm chủ tịch nước Bác từ chối mãi, Bác nói mình là chủ tịch nước à ? mình chỉ đứng đằng sau thôi, còn tìm người khác làm. Người còn nói nếu tìm khó quá cứ đưa Bảo Đại ra làm rồi mình thu xếp. Bác thực sự vì cách mạng chứ không vì mình.

Đấy là về phía Liên Xô, Trung Quốc, còn về phía Đảng cộng sản Pháp, là Đảng thân thiết với ta, lúc đầu họ cũng cho Việt Minh là phái thân Nhật chứ không phải cộng sản. Năm 1950, Đảng Cộng sản Pháp phái Léo Figuères, uỷ viên dự khuyết của Trung ương, phụ trách tờ báo Thanh Niên, sang điều tra tình hình của ta. Léo Figuères đến Việt Bắc. Về mặt chức vụ, tôi cũng tương đương với anh, nên được cử tiếp anh. Cố nhiên là năm 1946, khi sang Pháp Bác cũng đã nói được một phần nào rồi, nhưng Đảng Cộng sản Pháp chưa thể hiểu hết.
Léo Figuères muốn biết thực sự Đảng cộng sản có tồn tại hay không, anh ta đi khắp các nơi, ở đâu cũng thấy có Đảng cộng sản, mà đảng viên Đảng cộng sản là những người lao động, những người công nhân, trí thức, còn quan lại, địa chủ là tượng trưng bên ngoài thôi. Từ đó Đảng cộng sản Pháp mới thực sự công nhận ta. Cũng từ đó mới có các phong trào ủng hộ Việt Nam. Trước đó, Đảng Cộng sản Pháp không làm gì để ủng hộ ta. Đó là khó khăn đối với Bác lúc bấy giờ. Trong nội bộ tình hình nói chung ổn, trừ mấy trường hợp, như Trần Văn Giàu. Giàu học ở Liên xô về. Tôi biết có người tên là Phi Vân, cũng học ở Liên Xô về, bị đi tù ở Sơn La. Khoảng năm 1935, ở tù cùng với Phi Vân tôi hỏi Phi Vân nhận xét về Nguyễn Ái Quốc. Vân nói ông già này không có gì đâu, ở nhà cứ tưởng là nhân vật quan trọng lắm, chứ ông ta dân tộc chủ nghĩa, trình độ lý luận kém. Đó là cách nhận định về Bác của mấy người đi Liên Xô về. ....
Trong Đảng có hai nguồn đào tạo, một học ở Liên xô về, một học ở Trung quốc về. Do đó họ theo quan điểm của hai nơi, có những ý kiến không giống nhau, đôi lúc hục hặc với nhau. Nhưng nói chung cả hai bên đều chịu Bác. Chỉ có Nguyễn Sơn về sau có vấn đề phải ra đi. Trước khi mất, Nguyễn Sơn có tâm sự với tôi rằng sai lầm thì phê bình chứ sao lại đuổi đi. Ông ta trách Bác. Lúc đó tôi hỏi anh Võ Nguyên Giáp, anh ta hay hục hặc như thế để anh ta làm phó cho anh có được không, Võ Nguyên Giáp nói làm phó thế nào được, anh ta suốt ngày chửi tôi, anh ta còn phê bình trường Nguyễn Ái Quốc rất ghê. Sau Bác nói chú Nguyễn Sơn hữu tài nhưng… nên mời chú đi.
Thực ra cái khó của hai nhóm này là không hiểu được tư tưởng biện chứng mác-xít. Ta làm cách mạng ở một nước thuộc địa chứ không phải làm cách mạng ở một nước tư bản, hay quân phiệt nông dân như Trung Quốc. Vấn đề thống nhất dân tộc Việt Nam nhiều người không hiểu được, cho đến tận bây giờ nhiều người vẫn hiểu là phải nhấn mạnh liên minh công nông.

.. Những bài viết, những bài phát biểu của Bác từ năm 1920 đến năm 1925 có phân tích sâu sắc, lí luận sắc bén. Sau này, từ Cách mạng tháng 8 trở đi, Người viết ngắn gọn, đi thẳng vào vấn đề, không phân tích dài dòng để quần chúng dễ hiểu. Hai bên không hiểu, cứ “chiếu tướng” nhau rồi sinh chuyện. Nói Bác lí luận kém là hoàn toàn sai.
Sau khi gặp Stalin và Mao, hai bên cứ thúc ép Bác làm như họ, tức là liên minh công nông, do Đảng lãnh đạo, lập chính quyền công nông, rồi làm cải cách ruộng đất. Bác chưa muốn làm cải cách ruộng đất. Thuyết ba giai đoạn của đồng chí Trường Chinh đưa ra ở Đại hội II là có ý kiến của Bác. Theo thuyết ba giai đoạn thì cải cách ruộng đất để sau, hãy làm giảm tô, giảm tức. Đồng chí Trường Chinh phân tích rất hay. Năm 1946, họp Xứ uỷ, tôi được nghe ông nói : dưới chính quyền cách mạng, những cải cách nhỏ đều có ý nghĩa cách mạng, nhiều cải cách nhỏ cộng lại thành cuộc cách mạng lớn.

Mùa thu năm 1950, Trung Quốc phái hai phái đoàn cố vấn sang Việt Nam. Một đoàn chính trị do La Quý Ba làm cố vấn. La Quý Ba trước là bí thư của Mao, bí thư Sơn Tây. Ông này là người nghiêm chỉnh, phục Mao Trạch Đông như một ông thánh. Ông là người tin cẩn của Mao. Còn tổng cố vấn về quân sự là Vi Quốc Thanh. Đoàn cố vấn quân sự đông hơn, vì nó có đủ cả bộ máy của quân sự. Ta không hiểu thâm ý của Trung Quốc là muốn sửa ta. Họ sang để giới thiệu kinh nghiệm Trung Quốc, lí luận Mao Trạch Đông, lí luận quân sự, tổ chức quân đội. Việc đầu tiên của họ là sửa quân đội đã. Họ sửa cả Đảng trong quân đội cho nên mới lập ra chức chính uỷ. Trước ta chỉ có chính trị viên. Cùng là chính trị cả nhưng có khác nhau về chức năng. Chính uỷ là người bao trùm lên tư lệnh, chứ không phải tư lệnh là người quyết định. Lập ra chính uỷ là để xác định vị trí của Đảng, mà việc đầu tiên là nhắm vào ông Giáp. Vì ông Giáp xuất thân từ trí thức, năm 1950 mới có 10 tuổi Đảng, mặc dù ông tham gia cách mạng từ những năm 1930, nhưng ông hoạt động bị bắt, rồi lại đi học, mãi đến năm 1940 mới được Bác kết nạp vào Đảng. Theo Trung Quốc, ông là một trí thức, xuất thân không phải công nông, để ông nắm quân sự là không ổn. Đặt ra chức chính uỷ là để phụ trách Đảng trong quân đội. Có người đưa cho đoàn cố vấn một danh sách cán bộ trong quân đội xuất thân gia đình không phải là công nông định để gạt ra khỏi quân đội. Ai đưa danh sách này cho đoàn cố vấn ? Tôi ngờ rằng đó là một người trong quân đội, người này là Lý Ban, phó của Văn Tiến Dũng.

Văn Tiến Dũng là cục trưởng, Lý Ban là cục phó. Ông Giáp mới đưa danh sách đó cho Bác, Bác bảo đốt ngay đi, thay bằng ấy người thì quân đội không còn cán bộ. Nguyễn Hữu An, Đặng Vũ Hiệp đều trong danh sách ấy cả, vì thuộc trí thức. Theo họ, chấn chỉnh quân đội trước để chuyển sang tổng phản công. Lúc đó ta tin tưởng quá nhiều vào Trung Quốc, vì các ông Trang Điền, Chu Hạ sang nói khi nào Quân giải phóng “nam hạ” (đi xuống phía nam) thì sẽ giúp Việt Nam đánh Pháp.
....
Thế là năm 1950-51 đoàn cố vấn thực hiện chỉnh đốn quân đội. Các chỗ khác họ chưa đụng tới. Đại hội Đảng ta năm 1951, đại biểu nước ngoài tới dự chỉ có La Quý Ba, bên Cam-puchia có Xieng Hiêng (sau phản bội), phía Lào có một đại biểu. Tại Đại hội, La Quý Ba phát biểu chủ yếu về thuế nông nghiệp. Sau đó bắt đầu đánh thuế. Họ đem các nề nếp từ bên Trung Quốc sang, đem kinh nghiệm chỉnh đảng, chỉnh phong từ Diên An sang. Sau Đại hội ta không nói gì đến cải cách ruộng đất, chỉ thấy nói đến lí thuyết ba giai đoạn, vì thế nên mùa hè năm 1952 Mao Trạch Đông và Stalin gọi Bác sang, nhất định bắt phải thực hiện cải cách ruộng đất. Sau thấy không thể từ chối được nữa, Bác mới quyết định phải thực hiện cải cách ruộng đất. Bác viết một bài nhan đề ” Terre et eau ” (đất và nước) kí tên là Le Ding, đăng ở tạp chí Vì một nền hoà bình lâu dài, vì một nền dân chủ mới. Bác nói đại ý : Đất và Nước bao giờ cũng đi liền với nhau, muốn giải phóng nước phải đưa đất cho dân. Bác nói khéo để nói lên việc phải cải cách ruộng đất. Năm 1952, Đảng ta không có đoàn nào dự Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô. Mùa hè năm 1952, sau khi đi Trung Quốc và Liên Xô về, Bác chuẩn bị cho Hội nghị cán bộ đầu năm 1953, quyết định cải cách ruộng đất. Trung Quốc cử đoàn cố vấn sang, bao gồm cố vấn công an, cố vấn tổ chức, cố vấn tuyên truyền. Đoàn cố vấn cải cách ruộng đất do Kiều Hiểu Quang làm trưởng đoàn. Kiều là phó bí thư tỉnh uỷ Quảng Tây. Họ muốn qua cải cách ruộng đất để chỉnh đốn lại Đảng ta. Thời gian từ lúc tiến hành cải cách ruộng đất đến lúc dừng là 3 năm. Khi đó tôi thường được dự họp Bộ chính trị do đó cũng biết một số việc. Đó là việc làm thí điểm cải cách ở đồng bằng và chọn đồn điền Nguyễn Thị Năm. Nguyễn Thị Năm tức là Cát Thành Long có một người con làm trung đoàn trưởng ở cục chính trị của Văn Tiến Dũng. Gia đình bà trong dịp Tuần lễ Vàng có hiến 100 lượng vàng. Bà còn tham gia công tác của Hội phụ nữ từ năm 1945 đến 1953. Tôi chưa đến đó lần nào, các anh Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Đức Thọ thường hay ăn cơm ở nhà bà. Gia đình Nguyễn Thị Năm cũng giống như các gia đình Đỗ Đình Thiện, Trịnh Văn Bô giúp đỡ nhiều cho cách mạng.
Chọn địa chủ Nguyễn Thị Năm để làm trước là do có người mách cho cố vấn Trung Quốc. Họp Bộ chính trị Bác nói : ” Tôi đồng ý người có tội thì phải xử thôi, nhưng tôi cho là không phải đạo nếu phát súng đầu tiên lại nổ vào người đàn bà, mà người ấy lại cũng giúp đỡ cho cách mạng. Người Pháp nói không nên đánh đàn bà, dù chỉ đánh bằng một cành hoa

“. Sau cố vấn Trung Quốc là La Quý Ba đề nghị mãi, Bác nói : ” Thôi tôi theo đa số, chứ tôi vẫn cứ cho là không phải “. Và họ cứ thế làm. Thuyết của họ là không dựa vào tổ chức cũ mà tổ chức lại một số tổ chức khác của Đảng, họ phủ nhận hết các tổ chức khác như chính quyền, các đoàn thể. Ai lãnh đạo cách mạng tháng tám thành công, ai lãnh đạo cuộc kháng chiến từ năm 1945 đến năm 1953. Thế mà họ thẳng tay bỏ hết, trong đó có mấy ngàn người bị xử tử. Mục đích của họ không phải là cải cách ruộng đất mà là đánh vào Đảng ta. May mà đến năm 1956 ta kịp dừng lại, nếu không thì tan nát hết.
Sau này có những phiên họp Bộ chính trị tôi hay ngồi lại cùng Bác nói chuyện. Có lần Bác trầm ngâm nói : ” Mình đã nói để kháng chiến xong đã, mới tiến hành cải cách ruộng đất, cứ ép mãi. Mà nếu có làm cũng làm theo cách ta, chứ không theo họ “.
Đánh thuế công thương nghiệp, cải tạo tư sản cũng là do Trung Quốc đề ra. Hậu quả là hơn một triệu người di cư vào Nam. Ta đổ tội cho Pháp, Mỹ, điều đó chỉ đúng phần nào, còn là do ta làm vội, làm ẩu, đánh tràn hết. Không phải địa chủ mà phú nông, thậm chí trung nông cũng đánh. Đảng viên nhiều người tốt cũng bị đánh. Kết quả của những chính sách, cải cách lúc đó là như thế. Do đó khi Cách mạng tháng tám thắng lợi không khí vui mừng đến như thế, mà chiến thắng Điện Biên Phủ không khí không được vui bằng.

Tôi nhớ có chuyện thế này, đầu năm 1951, lúc đó tôi là chánh văn phòng của Tổng bí thư nên được dự các cuộc họp của Thường vụ Trung ương. Trong một cuộc họp Thường vụ Trung ương, Bác nói Stalin không được như thế đâu, chỉ vì người ta cần có một ngọn cờ mà đưa lên như thế. Nghĩa là Bác biết rõ Stalin. Người không sùng bái, cũng như không sùng bái Mao Trạch Đông. Nhiều lúc Bác cũng phải ngoại giao. Cũng như Bác không thích gì Tưởng Giới Thạch, nhưng Bác vẫn dịch cuốn Trung Quốc mệnh vận do Tưởng viết, rồi đem biếu Trương Phát Khuê. Tranh thủ để giữ vững chính quyền, giảm được kẻ thù. Bác hết sức tinh trong nhìn nhận tình hình chính trị. Nhưng người ít nói. Nhiều người không biết cứ tưởng Bác mơ hồ trong vấn đề này khác. Chính trị Bác sắc sảo, nhưng Người rất ghét nói ba hoa. Bác bao giờ cũng vì dân, vì nước, chứ không vì cá nhân mình. Nhiều người sắc sảo nhưng lại vì bản thân mình nhiều, củng cố vị trí cá nhân mình nhiều hơn. Nếu người lãnh đạo cách mạng nào cũng được như Bác thì không bao giờ chính quyền bị đổ, vì Bác lúc nào cũng có Đảng có dân, quan hệ với dân chặt chẽ, không bao giờ làm điều gì vì mình, tất cả đều xuất phát vì nhân dân. Tôi cho rằng hiểu được Bác không dễ, làm như Bác càng khó hơn.
Sau chiến thắng 1954, Bác gọi tôi đến và căn dặn: “Ta chiến thắng rồi công tác tuyên truyền chỉ nên biểu dương tinh thần anh dũng của quân và dân ta, không nên sỉ nhục Pháp. Vì như thế sẽ khích động tinh thần tự ái dân tộc của họ. Sau này đối với Mỹ, Bác cũng căn dặn như thế.
Tháng 10 năm 1956, đồng chí Trường Chinh xin từ chức Tổng bí thư, vì sai lầm trong cải cách ruộng đất, Trung ương bàu đồng chí Lê Duẩn làm Tổng bí thư, lúc này đồng chí Lê Duẩn vẫn ở Nam Bộ. Trong lúc chờ đồng chí Lê Duẩn ra nhận chức Tổng bí thư, Trung ương đề nghị Bác làm Chủ tịch, tạm kiêm nhiệm chức Tổng bí thư
.
....

Tìm hiểu về Bác, tôi thấy Bác có 10 nỗi đau lớn (1) :
Một là gia đình tan nát.
Mẹ và người em út mất sớm vì nhà nghèo không đủ tiền mua thuốc, không ai chăm sóc, trong lúc Bố đi vắng. Cụ Nguyễn Sinh Sắc bị thù oán nên bị hại. Tính cụ ngay thẳng, phê phán thẳng thắn những người xấu và làm theo ý mình cho là phải. Bọn quan lại ghét cụ. Nhân có một người bị phạm tội đưa đến, lệ ngày xưa trước khi xử án phải nọc người đó mấy chục roi trước. Chẳng may người phạm tội bị bệnh từ trước nên sau khi bị đánh trả về một thời gian người ta chết. Nhân việc này mới cách chức cụ và đày đi biệt xứ. Còn ông anh và bà chị Bác cũng bị tù đày, rồi sau mất sớm.

Nỗi đau thứ hai là, sau vụ chính biến Tưởng Giới Thạch, Bác đi Liên Xô. Trước đó Bác phụ trách phòng Đông Nam Á của Quốc tế Cộng sản. Bác có đi dự Đại hội V Quốc tế Cộng sản nhưng không được bầu vào Ban chấp hành. Lần này sang, do cách hoạt động của mình, Bác bị Liên Xô nghi ngờ là chưa đủ tiêu chuẩn cộng sản. Sang Liên Xô Bác không được giao việc gì cả, không có chức vụ chính thức trong tổ chức quốc tế. Bác xin về, họ không cho tiền. Sau Bác phải xin tiền bạn bè để về.
Bác về Xiêm tìm đến các gia đình người Nghệ như gia đình cụ Đặng Thúc Hứa. Bác hoạt động trong Việt kiều. Sau đó Bác có sang cả Lào để gây dựng cơ sở ở đó. Như thế việc Bác về Xiêm là do Bác chủ động chứ không phải là do Quốc tế phân công. Nghe tin ở nước nhà giải tán Thanh niên cách mạng đồng chí hội để lập Đảng cộng sản, Bác cho rằng chưa phải lúc. ..Sau cách mạng tháng Mười, hai người cộng sản Pháp sang Liên Xô gặp Lenin là Frossard và Cachin. Frossard không đồng ý với Lenin một số điểm cho nên về nước không được dùng mà chỉ có Cachin được dùng. Những điều này tôi đoán lúc đầu Bác không biết, vì lúc đó Bác đang là một nhà cách mạng chân thành, trong sáng, không nghĩ đến những điều phức tạp bên trong. Đảng cộng sản Pháp cho rằng Bác không lập ra Đảng cộng sản mà chỉ tuyên truyền chủ nghĩa yêu nước, lại phê phán Đảng cộng sản Pháp khá nhiều, trên báo chí và ở Đại hội Quốc tế Cộng sản. Đảng Cộng sản Pháp có ý không tán thành Bác. Năm 1923, Nguyễn Văn Tạo là học sinh bãi khoá ở Sài Gòn được sang Pháp học, được kết nạp vào Đảng cộng sản Pháp, rồi vào Trung ương ngay. Nguyễn Ái Quốc không được bầu vào Trung ương, Bác làm ở Ban thuộc địa. Đảng Cộng sản Pháp cử 3 người trong đoàn Pháp sang Đại hội VI Quốc tế cộng sản, trong đó có Nguyễn Văn Tạo. Nguyễn Văn Tạo đề nghị là ở Đông Dương điều kiện đã chín muồi, đề nghị cho thành lập Đảng Cộng sản. Sau đó mới tác động đến nhóm Bắc Kì _ Ngô Gia Tự, Nguyễn Phong Sắc, Nguyễn Đức Cảnh, ba người hăng hái nhất lập ra Đông Dương cộng sản đảng, đề nghị giải tán Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội. Việc đó chính là phê phán Nguyễn Ái Quốc, hay gọi là sự sửa sai đối với Nguyễn Ái Quốc. Nhưng Bác vẫn im lặng tìm cách sửa sai việc đã rồi, vì ba tổ chức tìm cách chống nhau, gây chia rẽ. Sau Lê Văn Lương nói với tôi là khi Bác về Trịnh Đình Cửu có hỏi Bác giấy uỷ nhiệm của Quốc tế cộng sản, vì Bác nói là Quốc tế cử về. Bác trả lời : ” Đồng chí thử tưởng tượng xem, nếu tôi mang trong người giấy uỷ nhiệm của Quốc tế Cộng sản, thì liệu tôi có về được đến đây không ? “. Trong số những người dự hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản có Lê Hồng Sơn (Đông Dương cộng sản đảng). Có người nói không có Đông Dương cộng sản đảng là không đúng. Người sáng lập An Nam cộng sản đảng là Hà Huy Giáp, nhưng anh theo quan điểm công nông, đưa công nhân lên là chính, nên mới đưa Hạ Bá Cang lên. Hạ Bá Cang, Nguyễn Thiệu, Châu Văn Liêm được cử đi dự hội nghị hợp nhất. Nhưng Hạ Bá Cang bị bắt ở Hải Phòng nên không dự được. Đại diện cho Bắc Kì là Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh. Bác đưa ra Chính cương vắn tắt và điều lệ vắn tắt, thật sự là Bác đã trở lại đường cách mạng với 3 mục tiêu : Độc lập, Tự do, Hạnh phúc. Mà dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc chính là tư tưởng của Tôn Văn. Nhưng cách thực hiện khác hoàn toàn. Tôn Văn dùng cách mạng tư sản. Bác là làm cách mạng nhân dân, cách mạng quần chúng rồi tiến dần lên cách mạng xã hội chủ nghĩa thực sự. Bác nói là làm từ từ, dần dần. Tiến lên chủ nghĩa xã hội ngay làm sao được với một nước có nền nông nghiệp lạc hậu. Mẫu của Stalin không phải đâu cũng áp dụng như thế. Nhiều ông cách mạng còn trẻ, kinh nghiệm ít, cứ tin theo sách, nhưng Bác không khờ như thế.
Năm 1931-32, ở Hương Cảng, Bác không có chức vụ gì, nhưng vì sự nghiệp cách mạng Bác vẫn làm. Bác gửi thư cho Quốc tế cộng sản đề nghị giao việc, vì thời gian đó Bác chỉ làm nhiệm vụ một hộp thư. Đường giao thông của ta với Pháp bị vỡ do một anh thuỷ thủ Pháp bị bắt khai ra. Khi tôi ở trong tù thì được thông báo cho biết là Trần Văn Giàu bị bắt khai ra đường dây, nhưng sau này tôi hỏi lịch sử Đảng Sài Gòn, họ nói có tài liệu chứng minh là không phải Trần Văn Giàu khai. Mật thám tìm được chỗ Bác ở và bắt Bác. Việc Bác được tha là nhờ luật sư Loseby. Ông luật sư cãi cho Bác là ông Stafford Cripps sau này là bộ trưởng dưới thời thủ tướng Churchill. Việc Bác bị bắt rồi lại được tha, Liên Xô không hiểu, họ nghi ngờ có điều gì phức tạp trong vụ án. Tại sao lãnh tụ cộng sản mà được đế quốc tha yên ổn, cho nên trong vòng 4 năm họ không giao việc gì. Bác là nhân viên thường ở Ban thuộc địa. Sau đó Bác nhận làm nghiên cứu sinh phó tiến sĩ, nhưng Người rất chán. Đại hội lần thứ VII của Quốc tế cộng sản Bác không có cương vị gì cả. Đại hội lần thứ nhất của Đảng ta họp trước đó, bầu Bác là Uỷ viên dự khuyết, và còn ghi rõ là chỉ công tác ở nước ngoài. Chính vì thế nên Bác không có tên trong đoàn đại biểu của Đảng ta sang dự Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản. Đoàn đại biểu của Đảng cộng sản Việt Nam chỉ có Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Hồng Phong. Sau khi xin việc mãi không được, Bác xin về nước. Gần đây tôi có gặp một nhà trí thức Việt Nam, người này có gặp một nhà trí thức Pháp, họ nói Bác suýt bị hạ vì những chuyện lôi thôi này. Ông lãnh tụ Nhật Bản Nosaka Sando cũng bị làm rầy rà. Những chuyện này Bác biết cả.
Thời gian này quan hệ với Trung Quốc không gay go, vì tình bạn của Bác với Chu Ân Lai, Lí Phú Xuân, Diệp Kiếm Anh… khi bác ở Quảng Châu là thân thiết. Năm 1938-39 Chu Ân Lai cũng giúp đỡ Bác nhiều. Chỉ có sau này với Mao Trạch Đông là Bác gặp khó khăn thôi.

Về việc Bác bị bắt năm 1942 ở Trung Quốc, tôi được biết như sau : chuyện này do Hoàng Điền, đại tá về hưu, người đước dự các lớp huấn luyện ở Liễu Châu năm 1944, nói với tôi. Mục đích chuyến đi này của Bác là gặp Chu Ân Lai để hỏi thăm tình hình quốc tế. Lúc Bác bị bắt, trong người có tấm danh thiếp : Hồ Chí Minh, Việt Nam hoa kiều kí giả và một số giấy tờ khác. Hoàng Điền nói Trương Bội Công đứng đầu bọn tình báo của Trương Phát Khuê đã bố trí Trần Báo ở với những người cách mạng của ta thường đi qua để bắt. Tên này là em bà Ngô Khoả Duy, vợ ông Hồ Học Lãm, người đã biết rõ Bác Hồ. Bác bị hành hạ khổ sở. Nhưng nỗi đau nhất của Bác là Người bị bắt trong lúc tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến động. Nếu ở nhà lúc đó không có anh Trường Chinh thì thật sự chúng ta cũng không có ngày nay đâu. Tả lại phần nào nỗi đau của mình trong những ngày bị bắt giữ, Bác có viết bài thơ : ” Trên đời ngàn vạn điều cay đắng, cay đắng chi bằng mất tự do “. Càng cay đắng hơn là Bác bị bắt trong lúc Cách mạng rất cần Người.

Nỗi đau thứ tư là sau năm 1945, Liên Xô, Trung Quốc không công nhận ta. Đảng cộng sản Pháp cũng nghi ngờ.

Nỗi đau thứ năm là 1950-52, Mao Trạch Đông và Stalin gọi Bác sang phê phán gay gắt, buộc phải thay đổi đường lối, dẫn ta đến sai lầm trong cải cách ruộng đất. Tuy nhiên Trung Quốc giúp ta chỉnh lại quân đội có phần đúng. Mục đích của họ là sửa lại cả quân sự, chính trị, tổ chức, cách dùng người. Nhân nói về chính sách dùng người của Bác, tôi muốn kể chuyện này. Có lần trong một cuộc hội nghị về công tác tổ chức, Lý Ban nói : ” Đối với con cán bộ khi kết nạp vào Đảng không cần phải thời gian dự bị, mà được chính thức ngay “. Bác nói ngay : ” Chú nói như thế không đúng. Đối với cách mạng phải xem cụ thể người ấy như thế nào. Vì có chuyện hổ phụ sinh khuyển tử, tức là hổ đẻ ra con là chó. Phan Bá Ngọc là con của Phan Đình Phùng đã đưa mật thám bắt Phan Bội Châu. Nhưng cũng có những địa chủ lớn như Bành Bái, địa chủ nổi tiếng ở tỉnh Quảng Đông lại là người tiến bộ, Đảng cộng sản coi là anh hùng. Cho nên không được máy móc, không được xem nguồn gốc xuất thân, lí lịch làm quan trọng “.
Họ sửa khá nhiều nên Bác đau lòng. Bao nhiêu nhân sĩ Bác lôi kéo tranh thủ, sau đó phải gạt hết, có những người còn bị đấu tố nữa.

Nỗi đau thứ sáu là Bác không ngờ Liên Xô và Trung Quốc lại xung đột, mâu thuẫn đến gay gắt như thế. Bác nói phe xã hội chủ nghĩa do Liên Xô và Trung Quốc lãnh đạo. Nhưng Liên Xô và Trung Quốc cùng lãnh đạo thế nào được. Một nước chỉ có một mặt trời. Mao Trạch Đông là mặt trời hay Stalin là mặt trời đây. Liên Xô hay Trung Quốc đứng đầu lãnh đạo. Chỉ có một mà thôi. Hai bên xung đột nên bên nào cũng muốn lôi kéo Bác về phía mình. Bác bị giằng xé trong suốt những năm cuối của cuộc đời.

Nỗi đau thứ bảy là sự bất hoà giữa mấy người lãnh đạo của ta. Không phải mọi việc đều êm đẹp cả. Họ nhất trí với nhau về quan điểm đánh Mĩ, nhưng quan điểm quốc tế không thống nhất, về quan hệ cá nhân với nhau không thuận lợi. Sau này Bác bảo tôi viết bài Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Ý Bác là muốn nói mấy ông này. Bài đó tôi viết Bác sửa lại nhiều. Sau Bác nói anh Tố Hữu cùng sửa nữa. Tôi được biết từ năm 1966, cứ mỗi buổi chiều thứ bảy, Bác lại cho làm cơm và nói : ” Mấy chú cứ đến đây ăn cơm vui vẻ với nhau, có gì khúc mắc cứ nói hết ra. Không nên để bụng “. Anh Nguyễn Chí Thanh làm thư kí cho những cuộc đó cho đến khi anh đi vào Nam. Sau anh Lê Văn Lương nói lại với tôi là họ cứ đến ăn cơm, chén hết rồi họ về, chẳng ai nói với ai điều gì. Nếu không biết việc này thì không hiểu hết tại sao trong di chúc Bác lại dặn phải đoàn kết toàn Đảng, từ Trung ương đến địa phương. Trên mà đã đoàn kết rồi thì cần gì nói đến cơ sở nữa. Trên đoàn kết mà dưới không thì lôi thôi to, các ông trị cho chết. Chính vì thế mà Bác rất buồn. Có thể có một vài hiện tượng, có đồng chí nào đó muốn vượt Bác. Bác biết hết nhưng Bác không quan tâm.

Nỗi đau thứ tám là tình hình trong nước và thế giới trước khi Bác qua đời đều căng thẳng, nên đầu óc Bác không được thư thái. Cuộc kháng chiến chống Mĩ kéo dài, nhân dân ta hi sinh nhiều của, nhiều người, Bác rất đau lòng. Tuy Bác nói là trường kì kháng chiến nhưng thực sự Bác không muốn cuộc chiến tranh phải kéo dài. Từ đầu đến cuối, Bác không muốn có chiến tranh. Cho nên mới có cuộc hoà hoãn với Pháp. Đối với Mĩ cũng thế, Bác muốn tranh thủ, nhưng không được mới phải đánh. Cộng thêm những năm tháng ốm đau kéo dài (trên 3 năm), có lúc Người cáu gắt cũng vì lẽ đó. Tất cả những nỗi đau này Bác không thố lộ cùng ai, kể cả với anh Lê Duẩn, anh Trường Chinh. Nếu chúng ta không hiểu những nỗi đau của Bác, không hiểu được sự chín chắn, đúng đắn của Bác trong chính trị thì ta sẽ giáo điều, nói không sát
.
Tổng kết lại, cho đến nay Đảng ta có 4 thắng lợi lớn và 4 thất bại. Bốn thắng lợi thì đã rõ : thứ nhất là Tổng khởi nghĩa, thứ hai là Kháng chiến chống Pháp, thứ ba là Kháng chiến chống Mĩ, thắng lợi thứ tư là thực hiện công cuộc Đổi mới đang thắng lợi dần dần. Thắng lợi trong công cuộc đổi mới tuy Bác không còn, nhưng đường lối, tinh thần độc lập tự chủ, tức là trở lại với chính mình, trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh mới đổi mới được. Cứ để như cũ chắc hôm nay nước đổ rồi. Bốn thắng lợi đều do tư tưởng độc lập tự chủ, do tư tưởng Hồ Chí Minh quyết định.

Bốn lần thất bại là do học theo Trung Quốc, học theo Liên Xô. Đó là cứ xông thẳng tới chính quyền mà là chính quyền công nông thôi, đó là cải cách ruộng đất, đấu địa chủ. Bác không phải là không nói tới đấu tranh giai cấp. Cụ nói đấu tranh giai cấp phụ thuộc vào đấu tranh dân tộc. (…)
Sai lầm lớn nhất của chủ nghĩa xã hội là cứ xông thẳng tới chính quyền. Và khi đã nắm được chính quyền rồi, đáng lẽ phải thực hiện dân chủ thì lại nhấn mạnh chuyên chính.
Cái sai nữa là, sau khi giành được chính quyền rồi thì thực hiện công hữu ngay lập tức, công hữu cực đoan, tức là vô sản hoá hơn cả tư sản. Mọi người không ai có gì cả, chỉ là người làm công ăn lương, nên động lực mới yếu đi. Marx dự báo khoa học có cái đúng có cái trật. Nhưng về xu thế lịch sử là Marx nói đúng. Chủ nghĩa tư bản không thể tồn tại dài lâu mà nó phải thay thế bằng công bằng hơn, cuối cùng là chế độ công hữu. Hiện tại không phải là công hữu hết mà chỉ cần xây dựng một nền kinh tế hợp tác là đủ. Chúng ta chưa dám nói khác. Người cầm quyền lại càng sợ nói khác đi.

Hoàng Tùng
Nguồn :
http://nguyentrongtao.org/2010/06/30/hoang-tung-nh%e1%bb%afng-k%e1%bb%b7-ni%e1%bb%87m-v%e1%bb%81-bac-h%e1%bb%93/
(1) Sau đó chỉ thấy kể ra 8 nỗi đau, không rõ người kể đếm nhầm, hoặc không kể hết, hay người ghi chép thiếu. Chúng tôi không nghĩ rằng bản này (được chuyền tay trong giới cán bộ) đã bị kiểm duyệt. Đây cũng không phải là sự bất nhất duy nhất trong hồi kí này.

27 thg 11, 2010

Báo chí của Đảng trót dại hay họ đang tự diễn biến

Chắc không cần giải thích nghĩa của từ dại trong tiếng Việt, hay phải trả lời câu hỏi “dại là gì?”. Vì ai mà không biết điều đơn giản đó, điều mà đứa trẻ lên ba khi đã bắt đầu biết nói biết chơi một cách hoàn chỉnh là nó hiểu.
Vậy mà hình như cả một bộ máy truyền thông của đảng và chính quyền nhà nước Việt nam ta mấy hôm vừa rồi lại mắc “dại”, mà cái dại này quá ngây ngô mới buồn cười, đây là suy nghĩ của cá nhân tôi khi đọc bài viết trên Thông Tấn xã Việt Nam nhan đề “
Bác bỏ bộ phim xuyên tạc về Chủ tịch Hồ Chí Minh” của tác giả đạo diễn – NSND Đào Trọng Khánh và rất nhiều các báo khác trong hệ thống báo chí của chính quyền cũng đăng lại tin này.

Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ, Chủ Tịch Hội Đồng Cố Vấn và Yểm Trợ (Theo Doithoai)

Theo bài báo của tác giả Đào Trọng Khánh cho biết bộ phim sự thật Hồ Chí Minh là của một nhóm người lưu vong ở hải ngoại đã thực hiện bộ phim tài liệu nói trên hòng xuyên tạc lịch sử vu cáo, bôi nhọ về Chủ tịch Hồ Chí Minh với những hình ảnh nghèo nàn, chắp vá và những luận điệu vu cáo của những kẻ thực hiện.
Và nếu những ai đọc bài báo này của tác giả Đào Trọng Khánh thì bạn đọc sẽ tự tìm hiểu và được biết rằng Bộ phim
“Sự Thật về Hồ Chí Minh” của Phong trào đòi lại tên Sài Gòn thực hiện, bộ phim đã được phát hành hơn 1 năm trước đây do Linh mục Nguyễn Hữu Lễ và cộng sự tiến hành xây dựng và trình chiếu om sòm ở hải ngoại. Từ đó đến nay bộ phim này đã dần dần theo các phương tiện truyền thông đi vào từng ngõ ngách gia đình người Việt Nam từ hải ngoại đến trong nước ai ai cũng biết.



Quan khách ngồi kín nhà hàng trong buổi tiếp tân ra mắt cuốn phim “Sự Thật về Hồ Chi Minh”.
(Photo by V. Lan/RFA)

Cũng như mọi bộ phim khác, phim nào cũng vậy người ta chỉ xem một lần cùng lắm là hai lần đối với những người chậm hiểu thì bộ phim “Sự thật về Hồ Chí Minh” cũng thế. Với thời gian hơn một năm thì đa phần mọi người đã quên nó về cả nội dung lẫn tên phim thì việc bài báo này của tác giả Đào Trọng Thi lại là hành động khuấy động cho bộ phim này trở lại, vì những người chưa biết và chưa xem phải tìm xem cho thỏa trí tò mò.

Được biết cách đây khoảng hơn một năm khi bộ phim “
Sự Thật về Hồ Chí Minh” được công bố ở hải ngoại thì trong nước, trên các tờ báo, radio, TV cũng đã đồng loạt phản bác và chỉ trích về bộ phim này. Vậy tại sao bỗng dưng những ngày này báo chí nhà nước lại nhắc lại sự kiện không có lợi này để làm gì?
Nếu ai theo dõi tin tức trong và ngoài nước thường xuyên sẽ dẽ dàng tìm được câu trả lời thỏa đáng, đó là có lẽ nó liên quan tới sự ra đời của tổ chức chống cộng mới ở Austrlia mấy ngày vừa qua, đó là việc
“Thành lập và ra mắt tổ chức LỰC LƯỢNG DÂN TỘC CỨU NGUY TỔ QUỐC tại Australia”, mà Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ, tác giả của bộ phim “Sự thật về Hồ Chí Minh” lại là Chủ Tịch Hội Đồng Cố Vấn và Yểm Trợ của Lực lượng Dân tộc cứu nguy Tổ quốc này .
Vì sao báo chí trong nước lại dại như vậy khi tuyên truyền không công cho các lực lượng chống phá hay là họ đang tự diễn biến thông qua một bài báo của tác giả Đào Trọng Khánh để quảng cáo và khuếch trương cho giúp cho Lực lượng Dân tộc cứu nguy Tổ quốc mới ra đời này?



Chủ tịch Hồ Chí Minh Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất Việt Nam (Theo Chinhphu.org)


Chưa hết, cũng nhờ bài báo của Thông tấn xã Việt nam mà bạn đọc biết được một chi tiết mới, đó là biết đến Quyết định 505/QĐ-TTg ngày 21 tháng 04 năm 2010, do Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân ký phê duyệt “Đề án tổ chức kỷ niệm 120 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 – 19/5/2010), 20 năm Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất Việt Nam” (1990 – 2010)”.
Nghĩa là Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt nam đã thừa nhận rằng UNESCO chỉ công nhận Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất Việt Nam” (1990-2010) chứ không phải UNESCO công nhận Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới” như đảng CS Việt nam và chính quyền nhà nước tuyên truyền dối trá bấy lâu nay. Bởi làm gì có chuyện UNESCO công nhận Chủ tịch Hồ Chí Minh là danh nhân văn hóa bao giờ đâu? Trước kia đảng và nhà nước ta toàn tự sướng, bịa đặt bốc phét .....để lừa gạt dân chúng trong nước đó chứ là mgì có thật.

Một bài báo của đảng xuất hiện không đúng thời điểm rất dễ gây cho bạn đọc hiểu lầm và suy diễn, nếu không phải vì những lý do phân tích nêu trên thì còn những lý do nào khác? Xin bạn đọc góp ý cho mọi người cùng biết.

Người xưa dạy rằng “Cái tốt thì khoe ra, cái xấu xa thì đậy lại”, vậy mà không hiểu tại sao Thông tấn xã Việt nam và các cơ quan báo chí khác bỗng dưng khuấy lại cái hũ “Sự thật về Hồ Chí Minh” vốn quá nặng mùi, không mấy thơm tho ra để nhằm mục đích gì?

Cá nhân tôi chỉ thấy bài báo trên hoàn toàn phản tác dụng tuyên truyền theo chức năng của báo chí cách mạng của đảng và nhà nước, mà ngược lại hình như nó rất có lợi cho các thế lực thù địch lợi dụng trong chiến lược Diễn biến hòa bình hay ta còn gọi là hành động tự diễn biến từ trong đánh ra.
Tại sao truyền thông và báo chí của đảng trước đại hội mà lại dại một cách ngây ngô như thế? Hay là họ cố tình dại vì lợi ích của ai đó, hòng tạo bước ngoặt bắt đầu chiến dịch đánh phá nhằm để hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh trước đại hội XI?

26 thg 11, 2010

Bạc!


Tui không phải là người bảo thủ và hoài cổ, nhưng không hiểu sao nghĩ đi nghĩ lại, cứ thấy các thế hệ trước sản sinh ra những con người thật đáng ngưỡng mộ.

Không tính các vị trí cao hơn, thì hàm phó thủ tướng, bộ trưởng trở xuống, nhắc đến cái tên nào cũng thấy lẫy lừng. Không nói đâu xa, gần đây thôi, từ bác Nguyễn Khánh, bác Vũ Khoan, bác Lê Huy Ngọ, bác Trương Đình Tuyển...Rồi bên đoàn thể, mặt trận cũng có những cái tên ngất trời như bác Lê Quang Đạo...

Các bác đó lẩy lừng là vì, trước hết, họ là những trí thức thực thụ. Tiếng Anh, tiếng Pháp họ nói ào ào, đón khách, đi nước ngoài...mặt không ngây ra như bây giờ. Chính vì họ là trí thức nên có lòng tự trọng, vụ án Lã Thị Kim Oanh xẩy ra từ thời bộ trưởng tiền nhiệm nhưng bác Ngọ vẫn dứng dậy xin thôi chức. Tiếc vô cùng!

Xuống nữa, ở các tỉnh thành, cũng có những bác cực kỳ. Ví như tỉnh Quảng bọ nhà tui, tuy là tỉnh lẻ, nhưng cái tên Nguyễn Tư Thoan, Trần Sự nghe oai phong lẫm liệt...Bây chừ về quê, thấy mấy cha rốn lồi, mắt toét làm chức này chức nọ, nói bá túng bá phát, chán ngoét.

Ở Vĩnh Phú có bác Bí thư Kim Ngọc, siêu!

Thầy dạy cũng thế. Hổi trước, tỉnh tui mà nhắc đến tên thầy Hoàng Thái, Trương Tán...không ai không biết. Thầy dạy hay đến nỗi ngồi nghe chảy cả nước dãi không nhớ mà lau. Thầy dạy lớp nào tụi học sinh cũng bu cửa sổ để nghe. Thầy Nguyễn Văn Dược dạy toán khiến học sinh mê toán như điếu đỗ, thầy Mạnh Khoát dạy địa thì học sinh chỉ muốn học môn địa...Nay không thấy (hay hiếm thấy?).

Đi học đại học, vào trường, gặp được những tên tuổi như Hồ Tấn Trai, Vương Ngọc Lễ, Nguyễn Thị Hoàng...đã sướng rơn cái con người. Nay trò không có thầy để ngưỡng mộ, vì thế suốt ngày thầy nghĩ chuyện điểm danh, trò nghĩ đến chuyện thuê người học thay. Đến nỗi Bộ GD-ĐT cũng phải ban hành quy chế đi học chuyên cần là có trong tay 3/10 điểm (chỉ cần thi được điểm 4 (4 x 7= 28 (tức 2,8 điểm), cộng lại đã thành 5,8 điểm, lạ đời.

Làm báo cũng y, không có cây bút để tìm đọc như xưa. Làm báo bây giờ hơn nhau chỉ là sự kiện.

Rồi văn chương, thơ phú cũng thế.

Mà lạ, hình như trời đất tụ khí vào từng thế hệ. Ví như thế hệ chống Mỹ, nhiều sinh viên học sinh miền Bắc đi bộ đội hay anh chị em trong đấu phong trào sinh viên học sinh đô thị miền Nam, thế hệ sinh đó ra những con người trứ danh cho đến nay, trong cơ chế thị trường, làm kinh tế, họ vẫn trứ danh!

Người ta bảo vận nước vượng thì sinh ra nhiều người tài. Không biết đúng không?

*

Tin vui: Đoàn thể thao VN có một Huy chương Vàng! (Vui là vì mấy hôm nay thấy bạc phếch).

Nguồn :http://vn.360plus.yahoo.com/thinhbabel/article?mid=10112&prev=-1&next=10102

Những phát ngôn ấn tượng và... ngụ ngôn "rể khách


Những phát ngôn ấn tượng...
Có lẽ, chưa có kỳ họp Quốc hội nào lại thu hút sự chú ý của người dân đến như kỳ họp QH lần này. Bởi một loạt những vấn đề cực kỳ nhạy cảm và quan trọng ... tạo nên những con sóng làm nghiêng ngả xã hội. Thì phiên trả lời chất vấn của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, và các thành viên Chính phủ trong 2 ngày 23, 24-11 mới đây là điểm đỉnh.

Cả 2 phía, người chất vấn và trả lời chất vấn đều phải ý thức được trách nhiệm của mình trước vận mệnh dân tộc. Phiên chất vấn rồi sẽ qua, nhưng trí tuệ, phẩm cách của 2 phía, sẽ còn đọng lại trong thước đo chất lượng người lãnh đạo của nhân dân. Mà rồi đây, lịch sử sẽ phải đánh giá sòng phẳng.
Có lẽ chính vì tính chất đặc thù của một kỳ họp QH bỏng rẫy những vấn đề quốc kế dân sinh, mà kỳ họp lần này cũng là nơi nảy sinh nhiều phát ngôn ấn tượng.

Phát ngôn ấn tượng nhất có lẽ là của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Võ Hồng Phúc về trách nhiệm của bộ này trong vấn đề Vinashin, đã khiến cả hội trường cười ồ: "Chúng tôi không có trách nhiệm gì mà phải chịu trách nhiệm.".



Lý giải không có trách nhiệm gì, ông Phúc viện dẫn, việc Bộ KH & ĐT không kiên trì theo đuổi quan điểm của mình để có thể tránh cho Vinashinh không rơi vào tình cảnh hiện nay, là do vướng luật. Theo ông Phúc, Luật Doanh nghiệp 2003 quy định quyền hạn rất lớn cho Hội đồng Quản trị, Tổng Giám đốc. Nếu Bộ có ý kiến can thiệp sẽ trái luật nên "bộ phải chấp nhận theo quy định".
Ông Phúc cũng "chia đều" trách nhiệm về Vinashin cho cả Chính phủ, Quốc hội, lãnh đạo Đảng, Nhà nước khi thí điểm xây dựng tập đoàn và theo ông, từ nay cần chỉnh đốn để làm tốt hơn, nhất là xây dựng, ban hành luật. Nhưng trong khi chia đều trách nhiệm cho các bên, ông Phúc lại khẳng định Bộ của ông không có trách nhiệm gì.

Kịch tính chất vấn lên cao, khi Chủ nhiệm UB Pháp luật QH, ông Nguyễn Văn Thuận cũng có một phát ngôn ấn tượng không kém.
Ông Thuận cho rằng cách trả lời của Bộ trưởng Phúc là không đúng và không được. Bởi theo ông Thuận khi thí điểm về tập đoàn, bản thân cơ quan quản lý nhà nước về doanh nghiệp là Bộ KH & ĐT phải trình ra QH việc sửa Luật Doanh nghiệp hoặc trình ra QH một nghị quyết về tổ chức và hoạt động của tập đoàn. Vì thế, Bộ KH &ĐT không thể vô can. Ông Thuận viện dẫn, năm ngoái QH dùng một luật sửa nhiều luật, tại sao Bộ KH & ĐT biết chuyện không ổn của tập đoàn lại không trình ra QH để xử lý?


Nếu với cách lập luận của ông Thuận, thì Bộ KH & ĐT chỉ có thể rơi vào một trong 2 tình huống sau: 1 là Bộ không nắm được vấn đề theo chức năng nghiệp vụ, 2 là Bộ không thấy hết trách nhiệm của mình. Cả 2 tình huống, tình huống nào cũng chứng tỏ sự thiếu nhạy cảm của Bộ trước thực tiễn.
Còn theo người viết bài này, tiếng cười ồn của cả nghị trường chính là cách chấm điểm, và cũng là lời bình chuẩn xác của các đại biểu QH dành cho Bộ trưởng Võ Hồng Phúc.

Phát ngôn ấn tượng thứ 2 thuộc về Bộ trưởng Tài nguyên & Môi trường Phạm Khôi Nguyên, khi ông tự tin nói về bùn đỏ Tây Nguyên, sau chuyến công tác khảo sát tại Hungari của đoàn cán bộ do Bộ ông quản lý.
Bộ trưởng Nguyên tập trung phân tích và so sánh giữa cái dở của công nghệ, thiết kế kỹ thuật của Hung, và cái hay của công nghệ, thiết kế kỹ thuật của VN trong xử lý bùn đỏ như công nghệ thải ướt, độ PH của công nghệ này, hồ chứa bùn đỏ, độ thẩm thấu, khối lượng bể chứa bùn đỏ, độ áp lực của hồ chứa bùn đỏ...Để từ đó kết luận: "Phía Hung không hề lường trước sự cố, còn phía VN chúng ta đã lường trước được những sự cố trên và nễu xảy ra chuyện gì thì hoàn toàn bảo đảm được mức độ an toàn".

Ô, nếu phía Hung không có "đi tiên phong" trong sự cố bùn đỏ, thì VN chúng ta đi sau làm sao lường trước được những rủi ro có khả năng xảy ra mà đề phòng nhỉ?

Trộm nhớ tới vụ việc sông Thị Vải (Đồng Nai) bị Công ty Vedan xả chất thải gây ô nhiễm toàn bộ con sông và môi trường sống của người dân 3 tỉnh. Sau khi báo chí ồn ào lên tiếng mạnh mẽ, bóc trần sự việc, Bộ trưởng Nguyên cho biết, 2 năm trước đó, ông đã phát hiện được vấn đề. Nhưng cái sự biết trước rồi im lặng nó rất khác về bản chất cái sự biết sau vì không biết đó, thưa Bộ trưởng thân mến!

Khác với sự tự tin về lý thuyết của Bộ trưởng Phạm Khôi Nguyên, trong buổi sáng phiên chất vấn tại kỳ họp QH, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lại tỏ ra rất cẩn trọng. Ông cho biết đã yêu cầu Bộ Công thương lựa chọn tư vấn độc lập nước ngoài để xem xét thiết kế hồ chứa bùn đỏ Tân Rai, nghiên cứu thêm phương án thải khô với Nhân Cơ, xây dựng các tiêu chuẩn về hồ bùn đỏ. Quan điểm của ông rất rõ ràng, chỉ sau khi có kết luận thẩm định lại của tư vấn nước ngoài, căn cứ kết quả đánh giá lại, nếu dự án bảo đảm chặt chẽ môi trường mới được triển khai.
Sự tự tin là tốt. Nhưng sự cẩn trọng còn tốt hơn. Nhất là sự cẩn trọng đó xuất phát từ thực tiễn cuộc sống của người dân, từ lợi ích đất nước, thì sự cẩn trọng đó mới có ý nghĩa an dân.
Phát ngôn ấn tượng thứ 3 tại kỳ họp này cũng chính là phát ngôn của một người đặc biệt. Đó là phát ngôn của Thủ tướng CP Nguyễn Tấn Dũng, người chịu trách nhiệm cao nhất của CP về sự đổ vỡ của Vinashin. Cũng là người đã nhiều lần nhận trách nhiệm cá nhân trước các chất vấn của các đại biểu QH về vấn đề này trong khi có những Bộ trưởng trong Chính phủ của ông cho rằng mình vô can.

Trước đó, ông đã phải trả lời một loạt vấn đề, khá thẳng thắn và cũng rất khôn ngoan. Từ trách nhiệm trong quản lý của đại diện chủ sở hữu, thể chế mô hình tập đoàn, tổng công ty nhà nước; việc bổ nhiệm Chủ tịch Hội đồng Quản trị Vinashin (ông Phạm Thanh Bình- hiện đã bị bắt), kéo dài từ 1999 đến việc kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực...Việc nào cũng ở tầm vĩ mô, cũng cho thấy những bất cập kéo dài trong chỉ đạo và triển khai thực hiện. Kết thúc trả lời chất vấn, ông có một câu phát ngôn khá ấn tượng, như một câu tự sự thì đúng hơn: ""Tôi đã làm hết sức mình theo Hiến pháp, pháp luật, vì đất nước, vì nhân dân".

Chất lượng bài trả lời chất vấn của ông được người nghe chấm mấy điểm? Có người đánh giá rất tốt, rất thuyết phục. Người khác lại chấm khá, trung bình khá, lại có người tỏ ra khắt khe hơn thì bảo như vậy là đạt yêu cầu. Chấm cao hay thấp, đó là quyền của mỗi công dân.
Nhưng cho dù có vượt qua được kỳ "sát hạch" căng thẳng sáng 24-11, tôi tin đêm đó, ông Thủ tướng cũng vẫn rất khó ngủ.


Quan trọng hơn cả chuyện Vinahsin, là sức ép một cơ chế quản lý kinh tế- xã hội, với mô hình phát triển kinh tế, và luật pháp quá nhiều khiếm khuyết đang cần được nghiêm túc nhìn nhận và thay đổi thế nào đây? Trong cái sự tổn thất quá lớn ấy, niềm tin của người dân cũng đã bị hao tổn phần nào. Đó mới chính là nỗi đau sâu sắc của người đứng đầu luôn tự nhủ "vì đất nước, vì nhân dân".


Và không thể không nhắc đến một đại biểu QH thường có những phát ngôn ấn tượng, tại các kỳ họp QH. Nhưng kỳ họp này, câu phát ngôn gây ấn tượng của ông lại ở hành lang, giữa vòng vây các nhà báo. Đó là đại biểu QH Dương Trung Quốc.
Được nhà báo hỏi "ông có thể bày tỏ băn khoăn và nguyện vọng gửi gắm đến Thủ tướng qua kì họp này", ông Dương Trung Quốc trả lời: "Thủ tướng nay tựa như Tể tướng xưa, là nhân vật "thượng đẳng đại thần" có vai trò rất quan trọng đến quốc gia. Câu hỏi sẽ là: "Thưa Thủ tướng, trong khi thực thi quyền năng của mình, có lúc nào ông thoáng tự hỏi mình sẽ để lại dấu ấn gì trong lịch sử hoặc rồi đây lịch sử sẽ viết về mình như thế nào?".
Một câu hỏi mang đậm dấu ấn của một nhà sử học, lại mang dấu ấn của một nghị sĩ, và cuối cùng, mang dấu ấn một công dân có trí tuệ và tư duy phản biện (!).

Đúng là mỗi một vị thượng đẳng đại thần, đứng dưới một người, đứng trên muôn người hẳn luôn rất có ý thức "người trên trông xuống, người dưới trông lên, người ngoài trông vào" trong mỗi hành vi, mỗi việc làm. Vậy thì hành vi ấy, việc làm ấy, phải được cân nhắc kỹ, suy ngẫm kỹ. Nhưng cái nền tảng của mọi hành vi, mọi việc làm đó phải là "dân vi bản" (coi dân là gốc).



Có coi dân là gốc thì mọi chủ trương, chính sách, mọi quyết định mới lấy dân làm tiêu chí, lấy lợi ích của dân làm trọng. Một thể chế đó, mới đích thị là thể chế xã hội "của dân, do dân và vì dân". Vị thượng đẳng đại thần nào cũng phải khắc cốt ghi tâm cái sự hành xử đó. Đó là trách nhiệm vô cùng nặng nề, lại cũng vô cùng hạnh phúc.
Nếu nhìn như vậy, câu hỏi đó có lẽ không dành cho riêng Thủ tướng, mà cho tất cả những ai đang nắm giữ trọng trách đối với con tàu vận mệnh dân tộc. Nói dễ, làm khó, lẽ đời khắc nghiệt ấy nào có buông tha bất cứ ai.
Dù có từng nắm giữ cương vị nào, cao cấp đến đâu thì 1 -2 nhiệm kỳ, đối với một đời người cũng chỉ là một khoảnh khắc. Khi những nhà lãnh đạo ấy rời chốn quan trường, về trong dân, đã để lại dấu ấn gì sau nhiệm kỳ lãnh đạo của mình, có lẽ phải là mối trăn trở của những vị lãnh đạo thực sự nặng lòng vì nước, vì dân.

Rừng "si" và ngụ ngôn dâu Con, rể Khách
Vệt bài phóng sự về Công ty InnovGreen trồng rừng trên các tỉnh biên giới từ Móng Cái (Quảng Ninh), sang tới Tràng Định (Lạng Sơn), quay lại Quế Phong (Nghệ An)... đăng trên VietNamNet gần tuần nay đã khiến dư luận xã hội giật mình. Câu chuyện là sự làm ăn của các công ty láng giềng với nước ta. Nhưng nó khiến người nghe chua xót nghĩ về một truyện ngụ ngôn lịch sử.

Từ cổ xưa cho tới thời hiện đại, đến tuổi lập nghiệp, anh đàn ông nào lấy vợ chả nghĩ chuyện xem tông. Khi tỏ tình, thì hay làm cái việc mà dân gian gọi là trồng cây si. Không biết IG được bao nhiêu tuổi rồi, chứ cái cách chọn nơi làm ăn quả thật là đang sức trai 30. Chọn đúng những nơi biên giới hiểm trở. Còn thể hiện tình yêu nồng nàn thì thôi rồi. Người ta thường chỉ trồng cây si, chứ IG này trồng cả rừng cây, hàng ngàn hec ta cây rừng, trồng quá cả nơi cho phép. "Si" quá cũng khiến bên được yêu đâm nghi ngờ (!)
Nhưng dân gian nước Việt cũng có nhiều câu tổng kết răn dạy lối ứng xử đạo lý ra trò. Có câu "con gái là con người ta...", lại có câu "dâu Con, rể Khách". Vì con gái sẽ đi lấy chồng, là con người ta, nên dù rõ ràng mười mươi nàng xinh đẹp nết na, thì nếu nhà đó có nghề truyền thống, dứt khoát nàng không được cha mẹ truyền nghề. Phòng khi lấy chồng, nàng mang cả bí kíp của nghề mưu sinh về tuốt bên nhà chồng, thì cả nhà cha mẹ nàng có mà treo niêu.
Đến con gái dứt ruột đẻ ra, gia chủ còn có những quy tắc, luật lệ rành mạch như vậy nữa là phận Khách. Cái khái niệm Khách có nhiều nghĩa lắm: Khách là đối tượng được tôn trọng, để chủ nhà thể hiện văn hóa gia phong. Khách cũng có nghĩa là người ngoài, phải biết đất lề quê thói mà tôn trọng gia chủ, tuyệt đối không được đi quá cái vị thế làm Khách, nhất là không được tò mò, không được săm soi vào những nơi thiêng liêng nhất, bất khả xâm phạm của gia chủ.
Cái đạo Chủ- Khách rõ ràng như thế. Vậy nhưng đi dọc các tuyến đường độc đạo, là mạch máu giao thông của khu vực Đông bắc, người ta thấy IG đã đi quá xa cái phận Khách của mình. Tại 49 xã thuộc 7 huyện của riêng tỉnh Lạng Sơn, các phóng viên không tin nổi vào mắt mình. Toàn bộ tuyến đường 4A, 4B hoàn toàn bị kẹp chặt trong những dự án của công ty này. Những địa điểm mà IG đầu tư tại 2 tỉnh Lạng Sơn và Quảng Ninh đều nhắm vào các vị trí nhạy cảm về quốc phòng- an ninh, còn xơi cả vào những vị trí then chốt, như điểm 558, từng là nơi xẩy ra những trận chiến nảy lửa trong quá khứ.




Trong khi đó thì ôi thôi, khi được hỏi, một vị chủ tịch xã biên giới của tỉnh Quảng Ninh loay hoay mãi không tìm được một văn bản nào lưu ở UBND xã về dự án của IG. Đến lượt ông giật mình khi được cung cấp các văn bản, tài liệu về việc giao đất rừng cho công ty này, mặc dù đó là địa bàn xã ông quản lý. Đến ngay cả một vị chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Lạng Sơn cũng "chưa nắm được dự án thuê nhiều ha rừng của người nước ngoài trên địa bàn tỉnh và cũng chưa thấy ai báo cáo về vấn đề đó".

Nhà của mình- mà những người Chủ ngành, Chủ xã... không được biết lúc nào Khách vào ăn ở, sinh sống và làm việc cho mục đích riêng của họ, thì lỗi tại ai đây?
Sự ngây thơ. Sự lỏng lẻo quản lý vì kém cỏi. Hay còn những lý do gì gì nữa? Nứớc mắt thì mặn, nhưng nước mắt của sự nhẹ dạ thì đắng chát, dù có thể biến thành trai ngọc

Trong cái thời buổi kim tiền này, rất khó có sự cho- nhận vô tư (lợi). Ai cũng hiểu, mà sao chỉ gia chủ- chính quyền cơ sở không hiểu, lại như "gã khờ ngọng nghịu đứng lơ mơ". Lẽ nào, chỉ thấy cái lợi (khổ thay, cái lợi của dân chưa thấy đâu), để ảo tưởng vào cái sự ngọt ngào môi hở răng lạnh, mà quên đi châm ngôn thời hiện đại "Môi hở răng...cười".
Lịch sử có những khi lặp lại. Nhưng có lịch sử dứt khoát không bao giờ được phép trùng lai.
TG : Kỳ Duyên